Lời BTV – Theo quy chế của Hội Truyền thống Phòng Quân lực Binh chủng Thông tin, hàng năm vào dịp tháng mười hai âm lịch Ban liên lạc đi chúc tết những hội viên tuổi 80 trở lên và gia đình các hội viên đã từ trần. Năm nay (năm Canh Tý) tôi cùng anh Hoàng Lập và anh Ngô Văn Đương cùng trong Ban liên lạc đã hoàn thành việc chúc tết từ 13 tháng Chạp. Hôm đến nhà bác Nguyễn Thụ chúc tết, sau những lời chúc tốt đẹp
của cả khách và chủ nhà, lúc ra về bác Thụ trân trọng đưa tôi tập sách “Nhớ mãi những miền quê” và nói: “Hưởng ứng đợt phát động viết hồi ức về Binh chủng Thông tin tớ đã ra được một số đầu sách, hôm nay xin tặng cậu quyển này”.Đại
tá Nguyễn Thụ tên thật là Nguyễn Văn Thụ, nguyên Trưởng ban Tổ chức biên chế phòng
Tổ chức động viên (nay là Phòng Quân lực), sinh năm 1933, tham gia chiến dịch
Điện Biên Phủ với cương vị Trung đội trưởng, quê làng Đại Thượng, xã Đại Đồng
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Thường trú tại ngõ 28 Trương Định, quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội, nghỉ hưu năm 1990. Khi nghỉ hưu bác tham gia công tác địa
phương, làm Bí thư Đảng ủy phường Trương Định 10 năm, bác say mê viết văn, là cộng
tác viên của buổi phát thanh Quân đội nhân dân Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Quân
đội nhân dân và một số báo khác. Các sách đã xuất bản:
Chuyện
làng tôi (NXB Văn học)
Cây
súng trổ hoa (NXB QĐND)
Sau
cơn mưa (NXB QĐND)
Nhớ
mãi những miền quê (NXB QĐND)
Bác Nguyễn Thụ phát biểu và tặng sách trong buổi họp mặt Hội Truyền thống Phòng Quân lực năm 2015 |
Hôm
nay vào những ngày cuối cùng của năm Canh Tý, Tết Tân Sửu đã cận kề, không khí
đón Tết khi Đảng ta vừa tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ 13 thành công rất tốt
đẹp, mặc dù đại dịch Covid – 19 cùng biến thể của nó vẫn còn diễn biến phức tạp
khôn lường nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm khống chế chúng để
đồng bào ta yên âm, vui vẻ đón xuân. Tôi trích đăng truyện ngắn Âm vang dòng
sông trong tập Nhớ mãi những miền quê của Nguyễn Thụ viết về một mối tình cách
đây đúng 50 năm của người lính quân bưu với cô gái vùng quê bên dòng sông
Thương yêu dấu.
Âm
vang dòng sông
Tôi đến nhà Nam, người bạn chiến đấu năm
xưa. Mới đến gần nhà đã nghe tiếng hát, tiếng nhị rộn ràng của làn điệu dân ca
quan họ Ngồi tựa mạn thuyền:
Ngồi
rằng ngồi tựa í ơ có mấy mạn ới ơ thuyền
Là
ngồi tựa có a mạn thuyền
Ấy
mấy đêm là đêm í hôm qua
Ngồi
rằng ngồi tựa í ơ có mấy mạn ới ơ thuyền
Là
ngồi tựa có a mạn thuyền
Trăng
í in là in mặt nước í ơ cũng có a càng nhìn
Là
càng nhìn non nước càng xinh
Hừ
hứ lá hôi hư…
Thắm thiết hơn cả là khúc hát cổ “Giã bạn”:
Trăm
năm mới có một ngày
Đàn
cầm ai nỡ dứt dây cho đành
Đấng
trên sao chẳng thương tình
Chữ
chung luống chịu một mình sao nên.
Đã là người Kinh Bắc ai mà chẳng say mê
với khúc hát truyền thống của quê hương.
Nam rất vui mừng đón tôi như người thân
lâu ngày mới trở về. Bữa cơm thật đạm bạc nhưng thắm tình anh em. Phấn chấn,
Nam đọc cho tôi nghe bài thơ “Dòng sông Thương” mà anh mới viết. Tôi nhớ rất kỹ
mấy câu đầu và mấy câu cuối của bài thơ:
Nước
sông Thương chảy ra biển cả
Ánh
trăng soi trắng xóa dòng sông
Nước
trôi, nước chảy mênh mông
Đưa
trăng với nước về sông Thái Bình
Bến
đò Lục Liễu xinh xinh
Con
đò còn đó, chữ tình còn đây
Và mấy câu cuối:
Hỡi
bao cô gái của dòng sông
Tình
em đó như dòng sông Thương vậy
Ôi!
Nhớ thương , thương nhớ dòng Thương ấy
Anh
viết tặng em và tặng cả dòng sông.
Tôi lắng nghe thơ của Nam, cảm nhận thấy
điều ai oán của tác giả về hạnh phúc của đôi trai gái nào đó, nó trái với cảnh
sắc của dòng sông Thương êm đẹp này. Nhưng do hoàn cảnh trớ trêu nào đó khiến
cho mối tình dang dở, nên mới có câu thơ:
Tình
em đó như dòng sông Thương vậy
Và bây giờ chỉ còn trong lòng Nguyễn Nam
mối ưu tư, phiền muộn “Thương nhớ, nhớ thương dòng Thương ấy”. “Thơ viết để tặng
em và tặng cả dòng sông”.
Càng dễ hiểu vì sao Nam ưa khúc ca quan
họ “Giã bạn” đến như vậy.
Chén
rượu của hai chúng tôi gần như còn nguyên, tôi mạnh dạn hỏi Nam: Vì sao bây giờ
không kết bạn trăm năm, tìm lấy người thương để mà nhớ? Nam cười, yêu cầu tôi ở
lại chơi vài ba ngày, đêm nay sẽ đi chơi trên bờ đê dòng sông Thương.
Chúng tôi dừng chân đúng bến đò Lục Liễu,
trăng mười sáu sáng vằng vặc. Ngồi chơi mát, Nam chậm rãi tâm sự: Anh muốn hiểu
quá khứ cái gì đã diễn ra trong đời tôi à? Anh đã đoán đúng tâm sự của tôi qua
bài thơ “Dòng sông Thương”. Năm Sáu chín, rời đất Kinh Bắc tham gia bộ đội, tôi
mơ tưởng nhiều việc lắm. Tôi được phân về Binh chủng Thông tin liên lạc làm
lính quân bưu. Chắc anh nghe bài hát về bộ đội quân bưu rồi chứ? Hay lắm, tình
cảm lắm. Ngoài nhiệm vụ chung ra thì họ còn là sợi dây tơ hồng nối liền hạnh
phúc của nhiều đôi trai gái từ hậu phương ra tiền tuyến, từ miền Bắc vào miền
Nam, từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn, từ đất liền ra hải đảo.
Vào một buổi chiều tà của năm 1971, trời
đã xẩm tối, tôi nhận nhiệm vụ chuyển lệnh hỏa tốc hẹn giờ đến Bộ tư lệnh một sư
đoàn phòng không đóng trên đất Hà Bắc, chậm nhất là 5 giờ sáng hôm sau thì phải
hoàn thành nhiệm vụ. Xe ô tô và mô tô của đơn vị đã đi làm nhiệm vụ cả, chỉ còn
lại một chiếc xe đạp cũ mà anh em chúng tôi gọi nó là con trâu già. Tôi phải
cùng nó hành quân trên chặng đường gần 100 cây số. Chỉ kịp chuẩn bị cho mình một
bi đông nước, một đèn pin và một khẩu súng AK thế là tôi mải miết lên đường.
Cũng may mà tôi là dân của đất Kinh Bắc, khi còn ở nhà hay đi đây, đi đó nên đường
sá cũng quen thuộc nhiều, cho nên lúc thì đạp xe trên đường quốc lộ, lúc lại rẽ
vào đường tắt, làm chó cắn râm ran cả xóm làng.
Chấp hành mệnh lệnh và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ là yêu cầu đỉnh cao đối với mọi chiến sĩ. Hơn nữa, ngày mai sẽ xảy ra
cuộc chiến đấu quyết liệt giữa lực lượng không quân Mỹ với bộ đội không quân và
phòng không của ta ngay trên quê hương Hà Bắc của tôi. Mệnh lệnh đến chậm thì
có tội với đồng bào, đồng chí, với quê hương.
Trăng về hạ tuần như ai đó đã cố tình
bán đi mất quá nửa, tiết trời đã sang đông, những cơn gió bấc đầu mù thấm lạnh.
Tôi vẫn mải miết đạp xe, mồ hôi đã ướt cả áo. Hơn ba giờ sáng tôi đã đến được bến
đò Lục Liễu của dòng sông Thương.
Bến đò Lục Liễu trên dòng sông Thương nơi nhân vật Nguyễn Nam đi qua cuối năm 1971 để chuyển công văn hẹn giờ là mệnh lệnh chiến đấu |
Cảnh vật im lìm quá, vắng vẻ quá, không
một bóng người. Giờ hẹn của mệnh lệnh đã đến gần. Tôi quyết định gọi đò: Ông
lái đò ơi! Tôi là bộ đội cần sang gấp. Tiếng vang của dòng sông về đêm khuya
như nhắc lại tiếng gọi đò. Vẫn yên tĩnh, tôi gọi lần thứ hai. Tiếng gọi của
dòng sông đã thức tỉnh cô lái đò Lưu Hằng Nga. Cô bịt vội chiếc khăn vào đầu,
che tai cho khỏi lạnh, con đò từ từ sang sông. Nga cất tiếng hỏi: Có việc gì cần
mà anh phải vất vả đi khuya thế? Cô lái đò! Cô giúp tôi qua sông có việc quân sự
gấp. – Tôi trả lời. Con đò cập bến, tôi mạnh bạo hỏi: nhà cô lái đò có ở gần
đây tôi xin một ít nước. Nga vui vẻ trả lời: nhà em ngay đây mà, mời anh vào uống
nước. Nghe tiếng người nói bố Hằng Nga cũng trở dậy, ông vốn là chiến sĩ Điện
Biên năm xưa nên rất nhạy cảm với nhiệm vụ của chiến sĩ quân bưu. Bát nước vối
trên tay cứ rung lên và cả người tôi cũng run lên vì rét. Bố Nga nói: Nga này,
con xuống bếp đốt lửa để anh xuống sưởi, rét quá do thấm lạnh rồi. Khuôn mặt Hằng
Nga hiện lên qua ánh lửa hồng, quả là một cô gái xinh đẹp như tên của cô ấy.
Tôi nghĩ như vậy, Nga cởi chiếc áo bông đang mặc chùm lên lưng tôi và nói: đừng
ngại anh ạ, anh rét lắm rồi đấy. Bố của Nga cũng mang bát cơm nếp mới nấu chập
tối mời tôi: Cháu ăn đi, cháu đi đêm làm gì có hàng quán để mà mua. Con trai của
bác cũng đang chiến đấu ở miền Nam, bác coi cháu như con, cháu cứ tự nhiên. Và
ông báo cho tôi biết, chiếc xe đạp đã hỏng xăm. Tôi sững sờ đặt bát cơm xuống.
Nỗi lo phải hoàn thành nhiệm vụ ập đến. Kìa con cứ ăn đi, ăn xong lấy xe đạp
nhà bác mà đi. Ông cười vui vẻ bước ra khỏi bếp. hằng Nga luôn tay đẩy các nắm
rạ vào bếp giữ ngọn lửa hồng để sưởi ấm cho người chiến sĩ đêm khuya. Nhiều lúc
bốn con mắt của chúng tôi lại gặp nhau phát ra một thứ ánh sáng vừa huyền ảo vừa
dịu dàng, vừa hắm đượm tình cảm.
- Thế quê anh ở đâu? – Nga hỏi.
- Anh là đồng hương của em. – Tôi trả lời.
Đã đến lúc phải lên đường, hai bố con
Nga tiễn tôi ra tận đầu xóm chỉ hướng cho đi không quên nhắc tôi còn đủ thời
gian không nên quá vội vàng. Sức nóng truyền cảm từ chiếc áo bông của tuổi dậy
thì, bát cơm nếp, lòng nhân từ của bố Nga giúp tôi thêm sức mạnh.
Bố của Nga quay về ông quyết định thắp
đèn sửa chữa ngay chiếc xe đạp. Còn Hằng Nga trở vào giường nhưng cô không sao
ngủ được. Hình ảnh người chiến sĩ cứ lởn vởn quanh đầu. À mà quên mất, mình
không hỏi tên anh, trông anh cũng khá đẹp trai, lại là đồng hương. Cô tư lự, tự
hỏi có phải mình đã yêu không?
Năm giờ kém mười lăm phút tôi đến trao
công văn cho sở chỉ huy sư đoàn. Sở chỉ huy nhộn nhịp hẳn lên. Mệnh lệnh tác
chiến được phát ra qua các phương tiện thông tin. Tiếng ma níp tạch tạch, tè
tè. Ngón tay người báo vụ như nhảy múa. Các cô gái tổng đài thoăn thoắt cắm
phích gọi hết đơn vị này đến đơn vị khác: A53 đâu, A53 đâu giữ liên lạc để truyền
lệnh. A56 đâu, xin đường cắm thẳng đến sân bay. Nhìn không khí náo nhiệt ở Sở
chỉ huy, tôi sung sướng như mở cờ trong bụng vì đã hoàn thành một nhiệm vụ quan
trọng cho cuộc chiến đấu ngày mai.
Hằng
Nga với con đò nhỏ lại đưa tôi và con trâu già qua sông để về đơn vị.
Bịn rịn bên nhau, Nga tiễn một đoạn đường
dài. Đột nhiên Nga nắm lấy tay tôi nói: máy bay địch, tên lửa. Vừa kịp nhìn lên
trời đã thấy một máy bay như bó đuốc rơi thẳng xuống đất. Đạn pháo cao xạ nở
như hoa trên trời. Từng tốp ba chiếc mích 21 hùng dũng triển khai đội hình. Trận
không chiến quyết liệt lại thêm con ma nữa phơi xác. Tôi nghĩ trong chiến công
này có công của người con gái tôi yêu.
Buông tay tôi ra, nga nói trong nước mắt:
chúc anh lên đường mạnh khỏe và luôn nhớ về với con đò nhỏ, về bến nước quê
hương này. Dừng một lát Nam hỏi tôi: thế anh có biết mối tình đầu nó say mê đến
thế nào không? Hình ảnh Hằng Nga suốt ngày cứ quấn quít bên tôi. Mỗi tuần tôi gửi
cho Nga một lá thư và cũng nhận được thư của Nga đều đặn. Có thư tôi đã nói với
Nga thế này: Hằng Nga thân yêu! Dòng sông Thương của em thật êm đềm, nhưng có
lúc nước sẽ nổi sóng. Mong em khéo lái con đò để khỏi chòng chành, thay chiều đổi
hướng. Còn thư của Nga cũng nhắc tôi là: Anh là chiến sĩ quân bưu, đi khắp nẻo
đường của Tổ quốc, mong anh không quên con đường của quê hương có con chim xanh
tháng ngày buồn bã vẫn gọi bạn mong chờ.
Tôi bị thương nặng ở chiến trường, hình
dáng bề ngoài thay đổi khá nhiều. Mỗi lúc nhớ đến Hằng Nga tôi lại thấy đau khổ,
không muốn vì tôi mà nàng phải chịu ảnh hưởng hạnh phúc trăm năm. Cũng vì thế,
biết bao bức thư tôi đã viết rồi lại không gửi nữa, mặc dù tôi vẫn yêu tha thiết
Hăng Nga.
Được ra miền Bắc điều trị, ghé thăm bến
nước năm xưa, chỉ còn vang vọng tiếng gọi đò năm trước và dòng nước trong xanh
thì thầm yên ả. Chắc anh còn nhớ câu: “Hoa đến thì hoa phải nở, đò đầy thì đò
phải sang sông”. Tôi luôn luôn có cảm nhận Hằng Nga vẫn còn yêu tôi tha thiết.
Tôi đoán có lúc nàng chắc là đã khóc hết nước mắt, tin rằng tôi không còn dịp
trở về. Nhưng mà có khi, có lúc nàng lại giận hờn cho tôi phụ bạc mối tình đầu
thủy chung trong sáng và biết đâu nàng vẫn hy vọng mong chờ.
Đêm về khuya, theo dòng nước chảy, ánh
trăng vẫn dập dờn đuổi nhau đến tận chân trời. Đêm ấy tôi không sao ngủ được,
nghĩ về mối tình đầy dang dở của Nam. “Chiến tranh bao giờ vẫn là chiến tranh”,
định nghĩa ấy không thể nói khác được. Người ta nói nhiều về sự mất mát về người,
về của trong chiến tranh nhưng còn một thứ mất nữa ít người tính đến, đó là sự
hy sinh tuổi thanh xuân của hàng triệu con người. Sự tan vỡ về tình yêu, hạnh
phúc của biết bao lứa đôi đang nở rộ, đẹp hơn cả trăng rằm, đẹp hơn bất cứ thứ
gì đẹp nhất trên thế gian này. Vết thương trong chiến tranh cũng có thể hàn gắn
được nhưng còn vết thương trong lòng thì lấy gì bù đắp, đã đành chiến thắng nào
cũng phải trả giá.
Xa Nam một thời gian, tôi nhận được tin
Hằng Nga đột ngột tìm đến quê hương Nam. Cuộc hội ngộ bất ngờ này đã tốn biết
bao nhiêu nước mắt. Nước mắt của ngày gặp mặt làm trôi ra dòng sông Thương tất
cả các vết thương tưởng chừng vĩnh cửu.
Những quả đồi trọc nay đã biến thành rừng
cây dưới bàn tay vun trồng của Hằng Nga trong những năm xa vắng, đợi chờ Nguyễn
Nam. Rừng cây đang ngả theo chiều gió, vui mừng tiễn đưa Hằng Nga về với hạnh
phúc của lứa đôi. Hạnh phúc bất ngờ bao giờ cũng là hạnh phúc đẹp nhất.
Tại bến đò xưa nay đã mọc lên một cây cầu kiên cố mang tên Cầu Bến Tuần - tên ngôi làng của nhân vật Hằng Nga trong truyện ngắn (Bên này Lục Liễu, bên kia Bến Tuần) |
Bây giờ chỉ còn nghe thấy tiếng con chim
cu xanh gọi bạn đều đều trong tuần trăng mật. Nó càng tha thiết hơn bởi có thêm
tiếng thông reo rì rào xen lẫn với vang vọng tiếng gọi đò năm xưa.
Tác giả: Nguyễn Thụ
Được đăng bởi: Thân Ngọc Thúy
0 comments:
Đăng nhận xét