(Hồi ký của đồng chí Hoàng Đạo Thúy, phần 4/5)
Các chiến trường đánh mạnh lên là yêu cầu đối
với Cục Thông tin càng lớn. Nhiều máy hỏng, phải chữa, nhiều máy chiến lợi phẩm
mới phải nghiên cứu. Không có nhà máy hay xưởng, cửa hàng nào cung cấp, Cục phải
làm lấy nhiều thứ đồ.
Nhưng bây giờ các nhu cầu đặt ra cấp bách.
Không thể cái gì cũng gồng gánh qua Đèo So, rồi lại gồng gánh về. Đi lại làm hỏng
thêm. Phải sắp xếp thành một xưởng lớn ở Nà Guồng, gần Cục. Xưởng mới, cơ ngơi,
tay nghề khá đủ, bắt đầu làm ăn tốt.
Nhưng thế là kháng chiến đã năm năm rồi. Không
ai bảo là lòng yêu nước có giảm đi, nhưng có những lúc anh em đâm ra suy nghĩ
nhớ nhung. Có nhiều đồng chí đã đưa được gia đình lên, gần thì Đại Từ, Dốc Điệp,
xa thì Yên Thế, chợ Chờ. Hàng mấy năm không về thăm nhưng anh em qua lại vẫn
chuyển những tin tức, nhưng cũng có nhiều đồng chí, vợ con ở Khu 3, ở địch hậu.
Không nói ra, nhưng bặt tin bấy nhiêu lâu rồi. Anh em làm công tác có đề ra khẩu
hiệu “không để giờ chết”. Sản xuất rồi lại họp, họp học vui, họp đọc báo, không
còn giờ chết thật, nhưng cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì, mà mệt nhoài.
Tư tưởng không giải quyết được thì nó chiếm cả giờ nghỉ. Có phải là chuyện bịt
được đâu.
Đồng chí An bàn là cử một anh em đi xuôi, thăm
các gia đình. Trong hành chính, không có thủ tục nào như thế. Nhưng từng con
người làm thế nào mà không lo được. Cục cử đồng chí Lương, Thư ký công đoàn của
Xưởng, đem một túi giấy giới thiệu cần thiết, đeo trong ba lô tất cả các thư về
nhà. Gánh nặng tình cảm.
Đồng chí Lương đã đi vùng tự do, vùng địch hậu,
thăm mỗi gia đình, đưa thư, nói tình hình sức khỏe, hỏi tình hình nhà, nhận thư
trả lời. Mấy tháng sau, đồng chí về Xưởng, ba lô nặng hơn trước.
Như một phép lạ, từ sáng hôm ấy Xưởng chạy ro
ro. Đúng là việc riêng gia đình của công nhân, chiến sĩ, cũng là một phần việc
công đó. Đây là một kinh nghiệm lãnh đạo tốt. Không sợ có giờ chết nữa.
Kháng chiến đã khá nhiều ngày, may mà sự lãnh
đạo của Đảng được mạnh lên.
Trước kia, ở cơ quan vẫn có một chi bộ, Chi bộ
Hà Huy Tập. Bộ Nội vụ cử sang giúp Đài Tiếng nói Việt Nam một cơ công máy nổ giỏi,
đồng chí Ngô Văn Thiệu, nguyên là học sinh trường kỹ nghệ, đồng chí đã làm một
thợ giỏi và đắc lực ở Tân Ấp xưa kia. Đồng chí tinh, nhanh, được anh em trong Cục
bầu làm bí thư và được Đảng ủy cấp trên tín nhiệm.
Đi họp về, đồng chí thông báo là từ nay Đảng sẽ
trực tiếp lãnh đạo tất cả. Mọi người mừng rỡ! Phòng Chính trị được lập ở cửa
thung lũng với đồng chí Thiệu làm trưởng phòng. Thu xếp cẩn thận và tính xa là
tác phong của đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Trọng Tình, cán bộ Cục Dân
quân đến TT làm Phó Cục trưởng. Phòng Chính trị có thêm các đồng chí An và Lạc.
Từ chiến dịch về mấy hôm thì tôi được đi học
chính trị, quân sự gần nửa năm. Chưa bao giờ được học có hệ thống, nên học say
mê lắm. Ngoài công việc học, cũng có một kỷ niệm:
Ở mãi trong rừng cũng thấy bí. Hôm ấy, qua
trưa, sửa soạn ra hội trường nghe giảng. Tôi đi sớm một chút để có thể đi vòng
đường đồng lúa cho dễ thở. Tay xách cái đèn để đến tối về thì soi đường.
Bỗng phía sau có tiếng người đi. Rồi có tiếng
hỏi:
- Ông cụ đi tìm ai thế?
Tiếng Cụ Chủ tịch. Cụ nhắc cái điển tích Hy Lạp,
Đi-ô-gien giữa ngày thắp đèn ra đường, bảo là đi tìm người.
Tôi thưa rằng:
- Tôi đã tìm thấy một người rồi ạ.
Nói để tỏ lòng kính mến Chủ tịch. Rồi bước xuống
ruộng, mời Cụ đi trước. Đến hội trường, không có một ai cả. Ai lại ngờ rằng Cụ
đi đường đồng đâu. Cụ đi một vòng thấy nhiều khẩu hiệu lắm, đọc hết:
- Sao lại viết nhiều chữ nước ngoài thế này? Tệ
nhất là ở đây! Đồng chí Ka-li-nin và đồng chí Lê-nin đều ghét cái cách này.
Buổi tối, học trò kháo với nhau rằng: Cụ đã rẽ
vào nhà ông hiệu trưởng. Bà đẻ con gái đầu lòng. Ông vốn là một nhà văn có tiếng
tăm, chọn cho con cái tên hai chữ rất thơ mộng lấy trong một câu thơ cổ.
- Cụ Chủ tịch hỏi tên cháu, rồi bảo: “Sao
không đặt là sắn, là khoai?”.
Cụ không nói rõ rằng: Cái tên mơ mộng kia, đọc
hay, nhưng mang một nghĩa suy tàn.
Thật là hai bài học “ngoại khóa” cho học trò
chúng tôi.
Trong khi học, được tin là Cục đã có Đảng ủy để
lãnh đạo về chính trị và chuyên môn. Đồng chí Bí thư Đảng ủy đã đi làm Trưởng
ban Thông tin ở chiến dịch Hòa Bình, cùng đi có cả đồng chí Tình.
Hôm ra về, đồng chí liên lạc đưa về Cục. Sao
anh em nhìn mà có vẻ ngơ ngác thế? Đồng chí Tình, Phó Cục trưởng, bảo: Sửa soạn
va-li mà đi Mạc Tư Khoa.
Cũng bình thường thôi! Làm lâu một chỗ thì
thay đổi. Bây giờ có nhiều cán bộ rồi, được làm một việc khác, cũng hay ở chỗ
biết rộng ra. Tự nhủ rằng: Làm việc gì cũng phải làm tốt đấy!
Vài hôm sau, nhận được thư của đồng chí Thủ tướng,
đồng chí hỏi:
- Sao anh lại thích đi nước ngoài?
Thế ra tôi thích đi nước ngoài à?
Rồi mấy hôm nữa thấy đồng chí Trần Đăng Ninh bảo:
“Bác bảo anh cứ làm ở đây, không đi đâu cả. Đợi
anh Văn về đã”. Lâu ngày không gặp, nói chuyện khá lâu.
Đồng chí Ninh nói: “Nhớ lại, một lần anh Hoàng
Văn Thụ và tôi, rủ nhau đến gặp anh. Khi gần đến nơi, thấy nó bố trí, chúng tôi
phải lủi...”.
Tôi cũng không ngờ là thực dân nó lo xa đến thế.
Không thế thì đã được gặp các đồng chí từ đấy rồi.
Sau này đồng chí Lê Quảng Ba kể, mới rõ công
việc thế nào khi Cụ Chủ tịch được báo cáo về việc thay đổi công tác của tôi.
Thế là lại tiếp tục được làm Thông tin.
Ít lâu sau, các đồng chí đi chiến dịch, thắng
lợi trở về. Đảng ủy làm công tác chính trị, lãnh đạo chuyên môn, kỹ thuật, tôi
được làm nghiệp vụ!
Một đồng chí đặt cho một vấn đề để xem nghiên
cứu thế nào.
Đang chuẩn bị đánh. Trưởng Tiểu ban TTLL đến gặp
đồng chí Trung đoàn trưởng, xin chỉ cho chỉ huy sở ở đâu. Thủ trưởng chỉ cây gạo
giữa đồng.
Thông tin đào hố, làm hầm, đặt tổng đài, kéo
dây...
Nhưng đến lúc nổ súng, mấy anh em đợi mãi
không thấy thủ trưởng đến. Phải đổ đi tìm, rồi vừa chạy theo vừa bố trí những mạng
tạm thời, không làm được gì mấy.
Có lẽ trong binh chủng phải nghiên cứu một cái
mạng TT thế nào, để khi gặp chỉ huy trưởng thích di chuyển, đi sát chiến đấu
thì dùng.
Nghiên cứu chưa được, thì đến chiến dịch sau, ở
Nghĩa Lộ, cũng vị thủ trưởng ấy, cứ đeo xắc cốt đi đó, đi đây, không đứng yên
chỗ nào cả. Trong trận đánh, không những TT của trung đoàn mà cả TT các tiểu
đoàn, các liên lạc, các cán bộ, chạy khắp chỗ hỏi thủ trưởng đâu? Thủ trưởng
đâu?
Đành thôi không nghiên cứu vấn đề ấy nữa.
Trong trận Tu Vũ, anh em kể lại việc của hai
chiến sĩ thông tin.
Một chú “chuyển đạt” của đại đội xung kích vượt
trận địa như một quả “pháo chuột”. Đó là Vũ Văn Nghĩa. Đồng chí Nghĩa không những
truyền lệnh nhanh, mà mỗi lúc được ở lại chỉ huy sở là đồng chí đào “hố một người”.
Đào luôn được 6 chiếc cho thủ trưởng và cán bộ. Đạn đại bác rơi gần, đồng chí lấy
mình che cho đại đội phó. Dẫn trung liên lên đồn gặp anh bộc phá rơi mất bao
diêm, đồng chí chạy đi mượn hộ bật lửa, cõng cả thương binh.
Pháo địch mạnh lắm, các đường dây từ tiểu đoàn
chủ công lên trung đoàn, từ tiểu đoàn xuống các đại đội đều ở trong khu vực bị
bắn nặng. Nhiều anh em điện thoại bị thương rồi. Những anh bị nhẹ vẫn đi nối
dây. Đồng chí Phan Đình Hồng đào cho mình một hố để nằm mà theo dõi dây. Đào
chưa xong, đã phải lao đi vì dây đứt. Cán bộ chạy qua bãi, cần nói, được phục vụ
ngay. Rồi hố đành bỏ dở vì cứ phải chạy hết đầu nọ đến đầu kia. Trong 3 giờ, đường
lên đứt đến 20 lần, các đường xuống đến gấp hai thế. Đồng chí Phan Đình Hồng được
thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất. À ra đây là cái anh nói “tôi là thông tin mà!”.
Ở trong cái bãi bị bom đạn, anh em điện thoại
mới thấy rõ là “cuộn dây đeo theo người” là rất cần. Hai chiến sĩ đi, một người
theo dây, đến một hố bom thì rút ngay dây của mình nối, trong khi ấy, chiến sĩ
thứ hai chạy ngay đến bờ kia, cũng rút dây nối, rồi hai anh gặp nhau ở giữa thế
là chữa được nhanh.
Cũng đáng nêu lên việc hai đồng chí điện thoại
đi với đội biệt kích pháo Hòa Bình.
Trong thị xã Hòa Bình, địch có một trận địa trọng
pháo để bắn xa ra ngoài. Quanh Thị xã là những đồn bốt chi chít.
Một đội biệt kích của ta gồm 41 người, trong
đó có 2 chiến sĩ điện thoại của Tiểu đoàn 303. Hai đồng chí đã luyện kỹ trong 2
ngày. Đi theo đội, luồn lách giữa các vị trí địch, đi đến đâu rải dây đến đó. Từng
đoạn, đồng chí chỉ huy báo cáo được về nhà. Đến trận địa trọng pháo thủ trưởng
đi đến đâu là dây rải đến đó. Việc xong lại cuốn hết dây về, an toàn.
Tiểu đoàn Thông tin của Cục làm tốt việc thả
dây qua Sông Đà. Nước chảy xiết, tầu địch đi lại luôn. Thả dây, làm những quả
đá buộc theo ròng rọc cho dây chìm sát đáy ngụy trang tốt ở hai đầu, chỗ bờ
sông.
Chuyển đạt qua sông cũng không dễ vì có tàu
bay đi lại luôn. Ban ngày mà có hỏa tốc thì dùng ống nứa hay cây chuối mà bơi
qua. Nếu đi thuyền mà gặp tàu bay thì tụt xuống sông, rồi lặn ra xa thuyền.
Công văn đã phải bọc kín trước. Nhiều lúc dùng vải nhựa làm phao bơi. Tàu bay
xa rồi, lại đuổi theo thuyền.
Đặt dây qua đường số 6 là việc làm rất công
phu. Địch tuần tra trên đường luôn, chặt hết các cây mà tán giao nhau ở trên đường.
Hai bên đường cũng bị phát quang. Đặt dây ngầm cũng nhiều lần nó dùng máy dò được.
Sau phải làm cách này: Phá hoại nhiều quãng đường, rồi đặt dây chính ở chỗ đường
hỏng ấy. Đào sâu trong lòng suối, ghìm sát đất, ngụy trang, bằng rong, rêu, cho
dây chui qua cống. Ngoài cống lại để một quãng dây giả để nó tìm thấy mà phá.
Còn dây thật thì chôn sâu nên dùng được lâu.
Có chỗ không có cống nào mà chui. Dây phải đặt
theo mặt đường. Như thế thì phải làm một công trình thật sự mỹ thuật. Phải xem
kỹ mặt đường rồi ghi rõ: Chỗ nào có cuội, có đá, có ổ gà... Rải áo ra, lấy dao
nẩy từng mảng nhỏ, để lên áo. Không được rơi vãi tí đất nào. Đặt dây xong, lại
xếp các mảng lại. Y như trước, một trăm phần trăm. Làm thật khéo thì dây có thể
dùng được khá lâu.
Ở trận Gô Tô, đại đội TT có những kinh nghiệm
đáng ghi nhớ.
Vì một cọc “lộ tiêu” không vững mà anh em đi
qua vịn vào, làm chệch hướng, mà một đơn vị lạc đường. Tuy đến cuối chiến dịch,
đã mệt mà vẫn chuẩn bị tốt nên mạng đặt được. Nhưng đường dây qua “cửa mở” bị cắt
luôn 4 lần, điện thoại viên lăn xả vào nối, một đồng chí hy sinh. Sau phải làm
nhiều đường qua cửa, xa nhau mới giữ được liên lạc. Khi chiếm ụ súng thứ nhất
thì hai đồng chí điện thoại hy sinh, máy bị phá, VTĐ thoại lên tiếng thì đồng
chí phụ trách cũng hy sinh. Một điện thoại nhặt máy làm thay, bị lúng túng vì
tiếng mật, thì đồng chí đại đội nóng ruột, ra lệnh “nói rõ”. Kết quả nguy hại đến
ngay: Địch bắn chặn lập tức phía sau, dây về hậu phương đứt hết, viện không lên
được. Điện thoại viên Tiến lao đi nối, bị thương luôn 2 lần, đảng viên Kế cũng bị thương, chỉ còn
thoi thóp mà vẫn động viên Tiến đi tiếp.
Ở trận Đồi Miều, các đường dây đứt hết, đứt
nhiều chỗ nối không kịp nữa. Tất cả các điện thoại viên sang chuyển đạt hết, bảo
đảm được việc chỉ huy.
Thế mà cũng còn cái chuyện hai đơn vị ở hai
bên đường số 6, cứ chỉ trông vào một điện thoại, mà điện thoại bị phá luôn
luôn, đành không liên lạc được với nhau và không phối hợp được với nhau.
Anh cấp dưỡng Trần Văn Cặng, Tiểu đoàn 303,
xung phong đem hỏa tốc, bơi qua Sông Đà, chính lúc tàu bay địch đang khống chế
khúc sông, giao thư trước hẹn nửa giờ.
Ở trận cuối của chiến dịch, các điện thoại
viên và chuyển đạt của Trung đoàn 9 đều trực tiếp chiến đấu, diệt được nhiều địch,
thu nhiều súng.
Địch khoe là chúng có một chuỗi boong ke bọc
kín đồng bằng. Boong ke như một khối xi măng cốt sắt, đầy lỗ châu mai, ngoài lại
có dây thép gai, phủ kín. Trông khiếp thật.
Trung đoàn Cao Bắc Lạng đánh vào vị trí boong
ke Le ri, về ở Phúc Yên. Đây là lần thứ nhất đánh một vị trí như thế. Chiến sĩ
ta đem liên thanh bắn tịt nghiến các con mắt của boong ke, rồi bò vào, dẹp dây
thép gai, nhảy tót lên nóc và từ trên đánh xuống. Cưỡi lên đầu hổ! Nhưng ác
quá, chính lúc ấy lại hết bộc phá, hết cả lựu đạn. Gọi điện thoại về Trung
đoàn, thì đường dây đứt rồi, vì pháo các nơi nó câu đến ầm ầm, mặt đất lỗ chỗ
như một cái sàng gớm ghiếc.
Triệu Văn Báo lao đi chữa. Chân nhảy, tay nối,
không biết là mấy mối nữa. Đạn nổ thì anh lại lao xuống hố, tin rằng không bao
giờ hai viên đạn lại nổ chung một chỗ. Vừa chơi hú tim với đạn pháo vừa nối
dây. Đến mối cuối cùng thì hai đầu dây chỉ còn chấm nhau, không đủ để nối nữa.
Báo cắn cả hai đầu dây vào hàm răng, nghiến lại cho điện thông. Phía trước quay
máy gọi về. Đang khẩn cấp, mắm môi mắm lợi mà quay, biết đâu rằng luồng điện quật
đồng chí hộc cả máu mồm ra, nằm chết ngất. Tiếng súng làm Báo tỉnh dậy. Thử thấy
đứt, lại bò đi nối. Nhưng lần này không còn đủ dây để ngậm được nữa. Chỉ còn
cách mỗi tay cầm một đầu dây, lấy thân mình mà nối. Chịu đựng. Chịu đựng. Và
như thế, phía sau chuyển bộc phá lên, làm nổ tan xác cái boong ke.
Sau trận này, Báo dự trận Bắc Ninh, đã có lệnh
rút. Nhưng thấy ở sườn đồi còn mấy cuộn dây mà đại bác bắn tới tấp. Báo không
ngần ngừ, lăn theo sườn đồi, đến lấy dây đem về. Giữa đường, gặp đại đội trưởng
bị thương, nằm ở đồng lầy. Đồng chí ngâm mình xuống bùn, để đại đội trưởng nằm
lên lưng, rồi toài đi.
Đồng chí Triệu Văn Báo thật là anh hùng.
+ + +
Địch ném bom Phòng TT
Khu 10. Đồng chí Phạm Trần Đắc - Trưởng phòng hy sinh. Đồng chí được tuyên
dương trong toàn quân.
+ + +
Tin tức các chiến trường
về gây được bao nhiêu là phấn khởi, tin tưởng. Trang bị vẫn còn quá nghèo nàn,
mà các đồng chí ta đã chiến đấu với tinh thần cách mạng cao cả, đạt đến những đỉnh
đáng mừng.
Vì phải không ngừng học
tập, mà chúng ta cần nói rõ ràng các chỗ thiếu sót ra để mà tiến lên nữa.
Ở Ninh Mít có vội vàng
thật, nhưng sao mà đồng chí tham mưu không phổ biến gì cả, chỉ ra lệnh cứng:
“Đem 3 cây số dây, 3 cái máy, sang sông ngay!”. Đến lúc đặt mạng thì thiếu dây,
để cho một bọn giặc lớn chạy thoát.
Ở Dốc Bóp, cán bộ
thông tin không đi sát anh em, dây mắc qua cả ngã tư đường, để cho địch nó nhìn
thấy và ù té chạy.
Trận Vai Cời, trong
tay có mấy thứ phương tiện mà đời thuở nhà ai, lại bố trí có mỗi một thứ cờ hiệu
thôi. Gặp ngay lúc sương mù. Địch đi qua mà đành phải bó tay. Y như là “không
có thông tin” ấy.
Có chỗ mắc dây lộ, đồng
bào đi qua nhìn thấy, phải kêu “trời”. Đường dây bí mật cho du kích “độn thổ” đánh
thủy lôi. Địch đi lại nhiều lần mà không thấy gì cả. Tham mưu nói anh em rõ yêu
cầu từng đoạn. Chỗ nào địch có thể bắn mạnh. Chỗ nào ta hay qua lại. Trận đánh
diễn ra rất tốt.
Trận đánh viện địch từ
Ninh Bình lên Hoàng Đan. Anh em đặt dây qua đồng sâu, địch không thể ngờ được.
Dây gác trên các đám bèo. Đến đê thì chôn vào mặt những mảng cỏ lên trên. Địch
sục sạo vào làng, không thấy gì cả. Đến lúc ta nổ súng thì nhờ có mạng dây bí mật
đặt đi các xóm, việc chỉ huy được nhanh chóng, địch không sao chạy thoát nữa.
Nửa đêm, Tiểu đoàn 706
nhận được lệnh tác chiến. Anh em thông tin đang đi lấy gạo. Trung đội phó tập hợp
đơn vị, anh tái mặt: Chỉ còn 3 chiến sĩ và 2 cấp dưỡng. Nhưng mấy anh em ốm
cũng xung phong xin đi. Cố khiêng cho hết dây máy. Tỏa mạng điện thoại cho trận
địa phục kích. Đồng Mít gồm nhiều mũi. Lại phải đặt một đôi dây qua đường cái, ở
hướng địch tiến đến. Sáng sớm, địch đến. Hơn một đại đội Âu Phi đổ trong 15
phút. Đại bác địch bắn đến, nhưng anh em đã thu xong dây, ra về.
Đồng chí trung đội phó
ấy là Phùng Quý.
Một phần lớn của Đại
đoàn Đồng Bằng đi rất nhanh về hướng Phát Diệm. Để theo kịp bộ binh anh em TT rất
nhọc về cái khoản dây máy của mình.
Vị trí Phát Diệm dài 2
cây số, có một trung đoàn đóng, có “Tổng bộ” tự vệ với những người tu hành mà mặc
áo nhà binh, quân lính lúc nhúc.
Ta tiến vào là đánh ngay.
Điện thoại phải rải bên đường đi, theo hướng tiến quân. Vì thế, lúc pháo địch bắn,
bộ đội đào hố, là dây đứt nhiều. Tiếc rằng không biết được trước để đặt dây qua
cánh đồng.
Trận đánh rất phức tạp,
nhưng thắng lợi rất nhanh chóng. Hay nhất, là từ đó nhân dân Kim Sơn biết bộ đội
ta anh dũng và trong sạch như thế nào.
Thông tin cũng rút được
kinh nghiệm rải dây cấp tốc.
+ + +
Ở địch hậu, trận Cầu Vật
cho rút ra những kinh nghiệm quý. Tất cả các đường dây, cả bộ, cả pháo, đều
ghim theo một con đường. Người đi lại vướng, đứt, đã đủ khổ. Đến lúc một quả
pháo đến là đứt ráo. Có nối lại khổ vì râu ông nọ cắm cằm bà kia. Không tránh
được cãi nhau. Vì ai cũng nóng, vội. Ở trận Vô Tình, cũng khổ vì thả dây theo
đường đi. Nhưng mắc theo cánh đồng, cũng phải cẩn thận. Ở Ứng Hòa, trên cánh đồng
mới gặt, tàu bay nó cứ chiếu các đường dây mà ném trúng các chỉ huy sở. Lẽ ra
phải đặt dây theo chiều đất, nép vào các bờ ruộng, ở dưới cỏ thì đã đỡ lộ.
Trong Binh chủng, vô tuyến
điện là một phương tiện rất quý. Nhưng cách dùng cũng không dễ dàng.
Cứ nói máy thôi thì gồm
máy thu, máy phát, máy phát điện. Trước thì đâu cũng phải dùng máy nổ nặng nề.
Có chỗ dùng xe đạp mà quay một bộ phận phát điện. Sau đã lấy được một số máy
quay tay nhẹ nhàng hơn. Ở Đại đoàn Đồng Bằng mua được nhiều pin. Dù phải một
người gánh đi, nhưng được cái làm việc yên lặng, ít sợ lộ.
Quan trọng là báo vụ
viên. Nếu được học cẩn thận thì đánh được đều, người ta khó nhận biết. Vì theo
dõi một đài mà báo vụ viên đánh có chứng, thì khá dễ. Lại phải có tinh thần phục
vụ cao. Người làm với cái máy, đến giờ mới làm, nên dễ có thói quen của người
công chức, làm việc tĩnh tại, không thích những chuyện thay đổi. Từ chỗ làm một
đài ở cơ quan, ra đi với một đài cơ động, đã khó rồi. Bí mật công việc yêu cầu
thay đổi luôn, đổi chỗ đặt, đổi máy, đổi cách làm, đổi cách doanh tác, đổi tổ
chức mạng. Một cạnh nữa là các điện gửi đi, nếu là điện rõ thì còn có chút
thích thú, nhưng lại chỉ là con số, là chữ mã, không biết là chuyện gì cả. Đã
hay rằng có độ khẩn đấy, nhưng người làm cũng dễ coi điện nào cũng như điện nào
ấy. Có khi lại thích nêu những cái khó khăn của một bộ máy tinh vi.
Vì thế mà việc quản lý
báo vụ viên phải là một việc rất cần chú ý. Săn sóc sinh hoạt, giúp đỡ học tập,
kiểm xét việc làm. Có việc thì phải hướng dẫn thật kỹ, đặt các yêu cầu rõ ràng,
làm cho anh em thấy rõ sự cần thiết của công việc.
Không săn sóc thì dễ xảy
ra việc bất ngờ. Một đài của Bắc Ninh, thấy địch gần đến là cuống ngay lên, quẳng
máy xuống ao. Một đài khác ở Vĩnh Phú, làm hầm nhỏ quá, khi cả nhân viên cần xuống
đó, suýt chết ngạt. Một đài quân báo vào Thái Bình, chưa làm được gì cả, đã rút
ra, nhân viên bị thương. Lúc cần làm thì cái tay quay lại ở trong ba lô người
đi sau, chưa đến!
Nhưng có đài, như đài đồng
chí Thân, cả đời ở trong địch hậu, mà chẳng sao cả. Đồng chí Thân và các đồng đội
đã tự coi như là một đơn vị chiến đấu, trước hết là không sợ gì, rồi cơ động,
linh hoạt.
Có khi lại bảo người ta mang máy cùng một hai người đến ở một chỗ “chim ho cò gáy” nào ấy. Không biết bao giờ về. Tất nhiên là phải
chuẩn bị cho các đồng chí ấy hiểu thấu sự cao cả của nhiệm vụ, và biết tìm ra
cái hay, cái đẹp, cái vui ở chỗ đến làm.
Những người làm thủ trưởng cần
biết rằng: Dù không có gì phản phúc, nhưng với những lối làm “tài tử”, phát ký hiệu lung tung, nói chuyện
riêng trên đài, những việc này giúp rất nhiều cho địch. Cũng có anh được dùng một
dụng cụ trình độ kỹ thuật cao, thì tự mình cũng sinh ra kiêu, “đuổi bạn”, từ chối điện, làm cho mạng TT mất
đoàn kết, mà mất đoàn kết thì mất luôn hiệu lực. Đoàn kết trong mạng VTĐ là
đoàn kết giữa những đồng chí, không biết mặt nhau, nhưng cùng làm một nhiệm vụ
cách mạng, cho rằng không có vui thích nào hơn thắng lợi của lý tưởng.
Thế mà, hồi chiến dịch Hòa
Bình, một đài đi vào địch hậu, bị vây, mà bạn lại bỏ liên lạc, lấy cớ rằng qua
hai ngày không có điện. Đến lúc đài hậu địch phát được, thì phải kêu như người
sắp chết đuối, “chèn” khắp
các mạng, cả một ngày, mới được giới thiệu làm việc. Biết rằng cái đài ở địch hậu
thì trăm khó, ngàn khó, lòng nào mà để đồng chí mình khổ đến thế.
Lại có một đài Vĩnh Phúc, ở
một khu bị địch theo dõi ngặt, lại sục vào luôn, đã dặn đài Bộ là đừng chờ trả
lời, cứ đánh “phóng thiên” tất cả các điện. Ở gần địch không mở được máy phát,
nhưng đã nhận được tất cả các chỉ thị của trên, nhận được các tin thắng trận,
phổ biến để giữ vững tinh thần. Giấy báo nhận phải gửi qua chuyển đạt. Sau dần,
nắm được quy luật địch, thì nếu có đến cách một cây số, máy cứ làm việc; nó vào
gần hơn mới chôn máy, chôn máy phát đã, còn máy thu cứ để nghe. Báo vụ viên VTĐ
cũng được nếm vị chiến đấu như thế.
+ + +
Chiến dịch Hòa Bình chấm dứt.
Địch đem 5 binh đoàn, tất cả 20 tiểu đoàn, 64 pháo, 500 xe cơ giới, 2 tiểu đoàn
dù, định phen này đẩy hết quân và du kích Thái Bình ta xuống bể. Mà lớ ngớ thì
nó làm được thật đấy.
Sớm 26 tháng 6 năm 1952, năm
cánh quân nó dàn ra. Nhưng các đơn vị địch hậu của ta vẫn vững lòng. Vì vô tuyến
điện của Bộ đem đến những tin tức tình báo, những chỉ thị tác chiến, y như là cấp
trên ở luôn với mình. Cái càng của địch vươn ra thì quân dân ta đánh gãy mũi đằng
trước, thụt vào đằng sau, các tiểu đoàn rút ra vòng ngoài rồi lại đánh vào.
Cách đánh như thế đặt ra cho thông tin những yêu cầu nhanh nhẹn rất lớn. Các
trung đoàn và một số tiểu đoàn có VTĐ, đặt và gỡ liên tục. Điện thoại rải cấp tốc,
rồi lại thu cấp tốc. Chuyển đạt chạy thi với cơ giới. Vài tiểu đoàn còn mắc lại
thì liên lạc của Bộ tư lệnh phải vào lấy được, để đưa đường rút ra. Bộ đội ra hết
rồi thì trạm liên lạc mới được rút. Như thế nhiều khi vẫn bị lẫn trong đám đồng
bào, bị dồn vào đáy vó. Địch vừa đi là trạm lập lại ngay, để giữ lấy cơ sở. Địch
bịt chắc các đường, tàu, ca nô đi trên sông như mắc cửi. Thế mà cứ nhè vào những
chỗ địch cho là khó nhất, ta qua được.
Sau Hòa Bình đã mệt, càn lại
mệt nữa, cất mẻ vó to, chẳng được gì. Chính lúc ấy đằng sau lại bị đánh ùn ùn.
Đó là cái trường khắt khe cho ngành thông tin học vận động và cơ động.
+ + +
Ở trong Khu 5, những kinh
nghiệm khó đến được. Anh em đã lớn mạnh nhanh chóng.
Đại đội TT của Trung đoàn
803, vì điều kiện địa phương có 2 trung đội chuyển đạt, 1 trung đội điện thoại,
1 trung đội thông hiệu, 1 trung đội VTĐ. Ở các tiểu đoàn chỉ có chuyển đạt
thôi. Trung đội điện thoại có đến 7 tiểu đội, cộng 83 người, mang 20 máy điện
thoại có bao da, 50 đến 60 km dây, một phần là dây đồng.
Trận đánh đồn Ai Nu, anh em
phải vượt qua Sông Ba thường có cá sấu. Đặt mạng điện thoại gần các mũi, nhưng
lại có một dây “vu hồi” đi theo rào đồn nên nhiều lần đứt mà vẫn nối được. Đường về hậu phương thì lợi
dụng dây của địch ở trên đường. Đến lúc nổ súng mới cắt.
Sau trận đánh, TT được khen là “thông tin thông từ đầu đến cuối”.
Ở Khu 5, có cách chuẩn bị thế này: Trước trận, các đơn vị đều họp quanh
sa bàn, mỗi người làm một bản nhiệm vụ cụ thể và ghi quyết tâm.
+
+ +
Ở chiến trường Nam Bộ, ta và địch ở xen kẽ. Ngoài bọn tu hành khoác áo
lính, còn lắm địa chủ làm tay sai cho giặc. Hao hao như ở Thái Bình, các Khu 8,
Khu 9, Đồng Tháp, nhiều kênh rạch ngang dọc, giặc đi trên tàu, thuyền, xe lội
nước, bất thình lình đổ bộ chỗ này, chỗ khác. Vì thế mà liên lạc chiến đấu vẫn
dùng vô tuyến điện là chính. Anh em cơ công đã có những cố gắng lớn, nên đủ máy
dùng. Các đài của ta cứ phải thay nhau mà canh liên tục. Quân báo thấy địch, chỉ
cần đánh một tín hiệu là bộ đội chuẩn bị đánh, hay di chuyển ngay. Dù không ở
giáp địch, đơn vị cũng không bao giờ ở một nơi quá 3 ngày. Có lần đài bị napan,
báo vụ bị bỏng. Trong các trận Mỹ Tho, Mỹ Thành, Sa Đéc, trận Hồng Dân ở Bạc
Liêu, Bình Hành Trung hoặc những khi truy kích địch, hoặc di chuyển, các đài
luôn luôn ở trên đường, đến giờ ngừng lại làm phiên, rồi lại đuổi theo bộ đội.
Nhiều khi đặt máy trên thuyền, thả dây xuống nước, vừa đi vừa làm. Tín hiệu di
chuyển phải thay luôn. Một cái khó là có nhiều kiểu máy lắm. Các máy dùng thạch
anh, thay đổi sóng khó, nên các đài khác phải đổi sóng luôn. Các máy dùng pin
thường yếu, nên cứ phải để một đài mạnh ở nhà, làm trung gian. Nhiều lần bắt được
đài địch, cứ để núm nguyên ở chỗ cũ mà lấy được tin địch. Mình thì cố giữ kỷ luật
liên lạc, cách đánh chính quy, luôn đổi tên, đổi sóng, đổi cả người làm. Các
đài ta và các đài địch quẩn vào nhau, sơ xuất một tý là hại ngay. Có đài nào của
mình mất, là phải thông báo ngay. Đêm cũng như ngày, lúc nào anh em cũng nai nịt
gọn gàng, máy, đồ để đúng chỗ.
Chính trong những đợt chiến đấu gay go, mới thấy rõ rằng việc giáo dục
chính trị, nắm vững tư tưởng là vô cùng quan trọng. Có những học sinh hăng hái,
từ thành ra, lúc đầu làm việc rất tốt, nhưng đến lúc gian hiểm thì bỏ về. Có những
anh em thành phần tốt rõ ràng, mà thiếu dạy dỗ cũng dễ hỏng. Có nơi đã không
rèn cập, lại để đi lại tự do, công việc không kiểm soát kỹ, sau gặp đổ vỡ lớn.
+
+ +
Xem kỹ tình hình ngành binh hồi này thì thấy rằng đâu đâu cũng có những
cố gắng để phục vụ tốt cho tác chiến. Trong một công việc khó khăn là thế, được
như vậy là đáng mừng. Nhưng cũng thấy những chỗ yếu, phải coi chừng.
Lúc này, phải tiến mạnh hơn nữa.
+
+ +
Bảng đen:
Một trận “độn thổ” của 54 chiến sĩ gần Bùi Chu (1982) đã bị chậm vì điện
thoại viên ở bộ phận chặn đầu đã “ngủ quên”!
Phục vụ tác chiến hai năm rồi. Phần lớn Binh chủng đã làm được nhiệm vụ.
Với sự lãnh đạo của Đảng ủy, Cục Thông tin liên lạc tổ chức Đại hội Thông tin
toàn quân lần thứ hai ngày 1 tháng 5 năm 1952, lần này số đại biểu đông hơn lần
trước. Có cả mấy đồng chí miền Nam dự.
Có đông đủ anh em, đem trình bày các cách làm tốt, các trận thông tin
thất bại và do thông tin hỏng, thắng lợi của quân đội bị kém đi, có khi thiệt
thòi nữa. Hội nghị có quyết tâm mới và đặt một số nền nếp mới để phục vụ các trận
đánh mới, từ đây chắc chắn to hơn trước.
Bộ phận phát hành của Tổng cục Chính trị chuyển sang Cục Thông tin liên
lạc. Đồng chí Lê Cư cũng sang.
+
+ +
Mùa Hè 1952, quân đội ta học: “Cách mạng Việt Nam và cuộc trường kỳ
kháng chiến”.
Rõ ràng là cần thiết, vì trong chiến dịch trước đã có những lần có anh
em tỏ ra ngại ngần. Mà năm nay thì ta phải tiến vào Tây Bắc, nơi bọn thực dân
đã chiếm giữ lâu ngày, nơi lắm đèo, nhiều núi, tác chiến sẽ gặp nhiều khó khăn.
+
+ +
Đồng chí Hoàng Bửu Đôn lãnh đạo các bộ phận thông tin đi chiến dịch Tây
Bắc. Đồng chí Nguyễn Văn Tình làm Phó ban. Lên đường khoảng tháng chín.
+
+ +
Tiến vào Nghĩa Lộ, đường chính qua Ba Khe. Nhưng với chúng ta, đó chỉ
là hướng phụ. Đại quân phải vượt đèo Khau Vác cao 1500 mét, rồi từ trên nóc ấy
nhảy vào Nghĩa Lộ, như quân từ trên trời xuống.
Làm vệ quốc quân, có ai kêu hành quân gian khổ bao giờ. Nhưng mà đường
Khau Vác quả là dốc ngược. Anh em thông tin đã thắt cái bao gạo truyền thống
vào lưng rồi, còn đeo thêm tám bữa lương chín nữa. Gánh dây è trên vai. Không
dám xoa, vì đi cùng có các đồng chí pháo, khiêng trên vai hàng khối sắt. Khau
Vác thật ra cái đèo, phải trèo. Gót chân người đi trước có lúc va vào mũi người
đi sau. Nhọc thì nhọc, nhưng mỗi người chỉ vượt có một lần. Riêng các đồng chí
chuyển đạt, thì vì cái nỗi mấy đơn vị qua bên kia, còn một phần hay ban chỉ huy
ở bên này, thế là có ngày phải vượt đèo đến hai lần. Mà có phải chỉ trèo mệt
thôi đâu. Có đơn vị ì ạch trên đường trèo, đã ra cái quyết định “Tuyệt đối cấm
vượt”. Không phải ai cũng cảm thông với thông tin binh, nên lắm lúc đành tạt ra
hai bên đi “lối khỉ hái chè”.
+ + +
Trận đầu đánh Sai Lương. Địch chạy rồi mà pháo cứ bắn đùm đùm. Muốn bảo
thôi không được, vì TT của 141 đã không làm đường đi pháo, như kế hoạch đã vạch.
+
+ +
Lúc vào đánh Nghĩa Lộ, 303 phục vụ tốt cho Chỉ huy sở Tiền phương của Bộ.
Trung đoàn 102 tấn công đồi cao Pú Chạng, toàn mạng liên lạc tốt. Chỉ có một
dây qua đường lại mắc thấp, để cho giặc đi qua nó dứt mất. Lúc ấy chưa nổ súng.
Bọn địch thấy dây, tru tréo lên. Thế là lộ. Pháo các nơi bắn đến, dây đứt tứ
tung. Thương vong. Napan. Các chiến sĩ điện thoại, lưng cháy lem lém, dập lửa
cho nhau. Có đồng chí chuyển đạt nằm đè lên bạn và chiếc máy đang cháy. Tất cả
lao đi nối. Rồi lập lại liên lạc và trận đánh thắng giòn giã. Một tai vạ nữa:
Vì một vị trí đã chiếm được, chỉ đánh dấu sơ sài thôi, mà xảy ra việc bắn nhầm
nhau, mấy anh em bị thương...
Cái chuyện chỉ huy sở không định rõ chỗ, lại
thay đổi xoành xoạch, làm cho dây trên xuống không đến, chuyển đạt dưới lên không
gặp, phải quay về. Các tiểu đoàn đánh thật tốt, chiếm được khu phố Nghĩa Lộ.
Nhưng ngộ có việc gì, thì làm sao. Người ta cũng có khi đổi chỗ, nhưng đổi thì
phải trình trên, báo dưới đặt người ở lại chứ!
Đẻ ra một cái vạ, thật là một cái “vạ”! Cái vạ
“móc ngoặc”. Hỏi thì trả lời là “linh động”. Linh động là cái gì? Trái nguyên tắc.
Lộ bí mật quân sự. “Ẩu”! Người ra cũng có khi mắc “chữ đinh”. Nhưng phải được
phép trước khi mắc. Đây là làm bừa. Bị bọn làm bừa bám vào, Tiểu Đoàn 303 phải
bỏ đường đê, lội suối, tìm đường yên ổn hơn, đến cánh đồng Nghĩa Lộ, ngụy trang
khéo, nên dây làm được việc mà không bị bom.
303 được lệnh đặt một đường từ Bản Tú về. Nhịn
đói ba ngày, mắc xong; nhưng đến Nghĩa Lộ, không biết cho vào đâu. Cuối cùng mất
hai ngày để dỡ.
Một kinh nghiệm. Đi rừng là phải có tổ chức. Đừng
để cả đám người đi ùn ùn, bạ suối nào cũng lội, bạ ngách nào cũng đâm vào. Nếu
không có chỉ huy phụ trách, mà gặp chỗ con suối uốn đi uốn lại nhiều lần, con
đường rẽ phải, rẽ trái, là đi một lúc lại quay về đường cũ mà không biết, luẩn
quẩn hết ngày.
Pú Chạng đóng cheo leo, 270 mét, mà cũng mất
như Đông Khê, như Non Nước. Các tướng, cả bộ trưởng Pháp, vòng mãi trên trời,
không biết sao mà lại mất được. Ồn đến Quốc hội Pháp.
Gia Hội tháo chạy. Nó ném hàng trăm bom để chặn
đường ta. Một tiểu đoàn dù nhảy xuống để ứng chiến. Nhưng ứng chiến cũng chạy.
Hậu cần ta chưa theo kịp. Một ngày nhịn rồi, thông tin cứ tỏa mạng. Tú Lệ chạy
nốt.
Truy kích! Có 2 tiểu đội điện thoại. Mỗi người
vác 2 cuộn dây chạy xa lên trước, buộc dây thân cây, rồi làm lối “chọc mũi
dùi”, tiến lên. Bộ binh và chỉ huy chưa đến thì anh điện thoại cầm tổ hợp đứng
đợi. Khi đại đội cuối cùng đã qua và báo cáo với chỉ huy rồi, thì điện thoại cuốn
dây, phi lên phía trước, làm lối “cuốn chiếu” “sâu đo”. Các tổ ăn ý nhau, hậu
quân biến thành tiền quân. Cứ bóc sau, đặt trước. VTĐ cũng bôn, để liên lạc với
trên khi đến giờ hẹn. Một bộ phận đi sát tiền đội, để gặp địch là tỏa mạng đánh
ngay.
Đuổi như vậy, đến gần Ít Ong, trên Sông Đà, một
trăm cây số. Bốn ngày đêm. Đói quá. Ăn cả hoa chuối rừng, ổi xanh. Địch bỏ dây
máy trên đường. Ta thu, dùng ngay. Bắt 187 thằng và 8 VTĐ. Còn thì nó sang sông
cả. Khổ vì chưa có VTĐ bộ đàm. Không có bộ đàm mà làm TT chỉ huy truy kích thế
này là giỏi!
Chiến dịch chuyển sang Sông Đà.
Địch đánh lên Phú Thọ, để cắt đường phía sau của
ta. TT của Trung đoàn 36 rộng từ mặt trận đến tận Trạm Thản, sau Phú Thọ, bố
trí trước cho bộ đội hai lần đánh thắng giặc.
Phía Nam, vấn đề là vượt Sông Đà, chỗ này
không rộng nhưng lắm đá, nước chảy xiết. Cả dây điện thoại cũng phải đem ra để
vặn thành cáp thả bè. Sang sông, là ùa vào một khu mà địch đã cắm nhiều đồn bốt,
từ lâu ở yên trong vùng dân tộc múa dẻo, hát hay. Chuyển đạt phải đi đầu, chỉ
đường, hướng dẫn truy kích. Thông tin bố trí để đánh những trận chớp nhoáng.
Tiểu đoàn 303 phải đặt đường ra bến Vạn Yên để
Bộ chỉ huy việc vượt sông, rồi lại chạy lên trước, trên đường 41, để điều khiển
việc truy kích.
Lần đầu tổ chức TT cho một đơn vị phòng không.
Mộc Châu là một vị trí lớn của giặc giữ đầu đường
41 và đường sang Lào. Đồn làm trên núi đá cao. Cạnh đồn có sân bay, lại có mấy
vọng tiêu. Trung đoàn 174 đánh lên. Các đường dây gần đường đều bị phá, sau phải
đem ra xa, phía rừng, mới đặt được. Đường vào cửa mở, không dây nào chịu được.
Sau phải buộc đầu dây vào hòn đá, ném qua rào thép gai, mới đưa được dây vào.
Sân đồn lại toàn đá, cắm dây đất không được, phải làm dây kép. Có lúc cả 2 mũi
quấn dây vào rào thép, nói với nhau cũng được.
Trận đánh găng, nhưng chỉ huy có phương pháp,
thắng lợi gọn.
Bộ để ý nhiều lắm đến chỗ Mộc Châu, vì nó là một
cái nút lớn trên đường. Ấy thế mà đêm 19 tháng 11, chính vào lúc mà theo kế hoạch,
174 đánh, thì đài VTĐ của Bộ không nghe thấy đài 174 đâu cả. Ở Bộ, sôi sùng sục.
6 giờ liền bặt tin. Cái gì đã xảy ra thế?
Trong VTĐ có một vài vùng đặt đài, đánh, không
ai nghe thấy. Hay là đài 174 đặt ở một cái vùng “yên lặng” ấy. Nhưng sau xét
ra, thì không phải thế. Biết rằng trận đánh khó khăn, đài 174 chui vào sâu
trong hang đá, dây trời đặt cẩu thả, cũng chẳng xem. Bộ tư lệnh chiến dịch ở
phương nào mà định hướng. Thẳm nào!
Bây giờ mới kể đến chuyện cái Tiểu đoàn 115,
hôm nọ truy kích đến tận Ít Ong, mà một phần địch vượt Sông Đà chạy mất. Tiểu
đoàn được lệnh củng cố, rồi tiếp tục đánh để phối hợp với mũi chính. Tình hình
phát triển nhanh. Tiểu đoàn vừa đánh, vừa tiến sâu vào lòng địch. Trước mắt,
các đồn địch bốc cháy. Cửa ngõ Sơn La mở toang rồi, mà cái đài VTĐ độc nhất lại
hỏng... Đồng chí Hà Văn Luân, tiểu đội phó chuyển đạt, cùng 2 chiến sĩ được lệnh
đi tìm Trung đoàn. Chỉ còn cách theo hướng máy bay địch hoạt động mà tìm đến.
Chui bờ, vượt bụi 2 ngày 2 đêm, hôm thứ ba, trong một khe núi ở Mường Piểng mới
gặp Ban chỉ huy Trung đoàn. Chân tóe máu, đất bám đầy người, áo quần xơ xác,
Luân chỉnh đốn tư thế, báo cáo thủ trưởng mừng lắm. Thế là cái tiểu đoàn mất
hút 5 ngày trời, bây giờ đã có mặt ở đây rồi.
Nhưng kìa, người liên lạc còn báo cáo tiếp:
- Tên thiếu úy chỉ huy Mường Piểng và 52 lính
của nó đã đầu hàng.
- ...? Sao?
- Sau khi quân ta diệt Mường Sài, tên chỉ huy
Mường Piểng đem quân chạy trốn. Chúng tôi gặp, nhưng lực lượng chênh lệch quá,
nên chúng tôi bàn nhau, rồi khi chúng nó đến gần, thì cả tổ bắn. Chúng nó lúng
túng. Tôi hô:
“Trung đội bên phải, trung đội bên trái, chuẩn
bị xung phong!” Tên thiếu úy ngơ ngác. Tôi nhảy ra, chĩa súng, bắt nó giơ tay.
Nó tưởng đã sa vào ổ phục kích, nên ra lệnh cho quân lính hạ vũ khí. Chúng tôi
giải tù binh về đây!
- Tuyệt!
Đâu đấy, tổng truy kích. Chiến thuật TT “sâu
đo” cũng không kịp nữa rồi. Dây của địch, cứ cắt về phía trước; đặt máy làm việc
ngay. Quân giặc Sơn La, tàn quân Tuần Giáo, 6 tiểu đoàn dù xuống, rùng rùng chạy
vào đám núi Nà Sản, cụm lại thành một “tập đoàn cứ điểm”.
+ + +
Tin tức từ đồng bằng cho biết: Ta lại đánh vào
Phát Diệm diệt cả Chùa Cao, đánh khắp nơi. Phần lớn đồn bốt địch bị vít trong
rào đồn, sống chỉ nhờ vào tàu bay.
+ + +
Cho chúng mày cụm lại ở đây. Không làm được
gì, mà tiếp tế khó khăn. Ông cho rằng cũng phải rút thôi.
Nó phải rút thật. Nhưng chính cái hôm nó rút,
máy VTĐ của đài quan sát ta, lại hỏng!
Hóa ra nó rút trót lọt...
+ + +
Chiến dịch chấm dứt. Giải phóng được rất nhiều
đất, đất các dân tộc ít người. Thông tin được đặt trước tình trạng di chuyển vận
động lớn, nên tháo vát nhanh nhẹn, già dặn thêm. Tiểu đoàn chủ lực của Cục cũng
đặt những mạng rất rộng. VTĐ đeo cả máy. Đi truy kích, vừa đi vừa làm. Điện thoại
vừa dập lửa trên lưng vừa nối dây, chuyển đạt vượt những vùng xa lạ. Thế này là
khá vững vàng rồi đây!
Nhưng VTĐ còn kém về phối hợp: Hành quân bỏ
phiên, đặt đài không chú ý đến hướng; đài cấp trên chỉ cần làm xong việc mình
thôi, liên hệ với cơ yếu chệch choạc. Kế hoạch TT Sài Lưng chủ quan. Ký hiệu
không rõ, anh em đánh lẫn nhau. Thay chỉ huy sở không báo. Điện thoại của Bộ
cũng bị vài lần chậm. Thường thì cứ đến các đợt sau, người mệt, đồ sứt mẻ, là
lúc phải mạnh về lãnh đạo, đặt rõ các yêu cầu, chỉ các điểm phải tránh. Mạng
thông trước lúc nổ súng, chưa đủ.
Móc ngoặc linh tinh, làm loạn liên lạc, VTĐ bỏ
phiên hay liên lạc một chiều, tự động tháo đường dây không xin lệnh, đó là những
việc đã xảy ra rồi, đã kiểm điểm rồi mà cứ xảy ra nữa. Hay là cán bộ thiếu kiên
trì; những lúc nhọc, không động viên hướng dẫn, thậm chí đòi hỏi. Cùng làm với
việc cải thiện đời sống, giáo dục, rèn luyện là rất cần đây.
+ + +
Chiến dịch mở rộng, các khó khăn liên tiếp. Đó
là độ xảy ra nhiều vấn đề. Ngay trong năm 1952 này, đã xảy ra những chuyện: Một
đài vào trận địch, bị đài ở nhà bỏ liên lạc 2 ngày. Một đài trong hành quân
truy kích, địch chạy lên Điện Biên, bị đài trên bắt ngừng lại làm “điện dịch
ngay”. Phải nhận, nhưng đến lúc đưa cho cơ yếu, thì ra không khẩn cấp gì. Kết
quả đài hành quân chậm, lạc một độ đường. Hai đài ở Ba Lay, Bản Hoa, cậy có điện
thoại quyết định làm thưa phiên. Đến lúc dây đứt, hàng giờ mới liên lạc được với
nhau.
Mạng vô tuyến điện, là một mạng liên lạc vô hình,
nên tình cảm giữa các báo vụ viên là một tình cảm lý tưởng. Làm hàng ngày hàng
giờ với những người bạn không hề quen biết, bằng những bộ máy thô sơ, phải căng
tai căng óc ra mới nghe được một tiếng thoi thóp, làm không kể giờ, không kể
phiên nào, anh chị em báo vụ đã tiêu rộng rãi cái vốn sức khỏe của mình. Khó mà
hiểu được với những đồng chí lắng nghe rồi lại gọi, gọi rồi lại lắng nghe. Thâu
ngày, thâu đêm, đầu óc căng thẳng. Tính khí hóa ra bẳn gắt, hay lầm lỳ. Có khi
bao nhiêu ngày, một đài bạn ở sâu phía bên kia mặt trận bỗng im, bặt, mệnh hệ đồng
chí ta thế nào? Đơn vị ta thế nào? Nhưng lại cũng dễ thông cảm với đồng chí ở
trong vòng nguy hiểm. Chỉ liên lạc với Trung ương bằng một máy VTĐ, mà máy bị hỏng,
đến bị phá hay bị bắt, phải lặn lội, mày mò, tìm kiếm, chắp nối thành một cái
máy cổ sơ. Mà không còn đồng hồ. Điều chỉnh lên một tý, xuống một tý, lắng tai.
Khổ tâm!
Không gì khổ tâm bằng mất liên lạc. Đói chịu
được. Không có vũ khí thì còn cái khác. Chứ không có liên lạc với trên, không
nhận được chỉ thị, tin tức, thì khác nào dòng máu ngừng lại, dây thần kinh cứng
đờ, đã cô đơn lại cô đơn một cách xót xa hơn nữa. Nay máy lên được rồi nhưng bạn
có còn nghe mình không? Ai oán thay! Tiếng gọi của đài đi tìm liên lạc. Sung sướng
thay khi chắp được liên lạc. Không những chỉ vì nối lại đường dây, dù nó vô
hình, không những nhận được chỉ thị, mệnh lệnh, mà còn cảm thấy nỗi thương yêu
của đồng chí mình. Đứa con đã tắt thở, mà lại cựa quậy được. Thảo nào mà công
tác vô tuyến điện gay go thế!
Ấy thế mà chính trong ngành ấy, đã hiện ra mấy
chỗ nứt nẻ. Phải chú ý nhiều đến chỗ này mới được.
Tháng 3 năm 1953, mặt trận liên minh Việt-Miên-Lào
quyết định đánh địch ở Thượng Lào. Một số đơn vị ta sang phối hợp với quân đội
Neo Lào Jssala. Trưởng đài Lê Thành Ý đi đã lâu lắm. Đến bây giờ đài vẫn làm việc,
nhưng không biết Ý có còn không...
Hai đồng chí Hoàng Bửu Đôn và Nguyễn Văn Tình
lại lên đường.
Địch ở đây cũng bố trí bằng cách tập đoàn cứ
điểm. Nhưng bộ đội Lào-Việt còn ở cách 20 cây số mà chúng nó đã chạy rồi. Khố
xanh tẩu trước. Khố đỏ và dù tẩu sau. Thế là một cuộc “truy kích thần kỳ” diễn
ra, vừa gạt, vừa đuổi 3 trăm kilômét đường rừng núi. Rồi quay lại nhặt. Ba
nghìn tên đóng ở Sầm Nưa, mà chỉ hai trăm tên thoát. Ai mà ngờ nó rộng nhanh thế,
nên mạng thông tin truy kích không dễ dàng. Nghe nói là không được tốt.
Thượng Lào được giải phóng phần lớn.
+ + +
Đến bây giờ mà nguồn tiếp tế máy vẫn là ở tiền
phương. Đồng chí Tình ra kiểu cho lắp mấy chục máy thu mới, 4 đèn. Vì thế mà tiềm
tiệm đủ được.
Làm đường dây đồng cột cao từ Chợ Chu đi biên
giới.
Cuối năm 1953.
Tình hình sáng sủa nhiều rồi.
Từ năm 1950, bộ đội thực dân đã mất quyền chủ
động. Mỗi lần cựa quậy lại đau thêm. Bao nhiêu phương pháp kinh điển của đế quốc
đã đem ra dùng hết rồi: Ngụy quân ngụy quyền, tự trị giả hiệu, địa chủ cường
hào, phản động tôn giáo, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, đem người Việt đánh
người Việt. Bẩy tướng tổng chỉ huy đã lần lượt bị triệt về, kinh tế đã đến chỗ
kiệt quệ. Nhân dân Pháp đã đấu tranh. Tình trạng sa lầy đã quá rõ ràng rồi. Đâm
đầu đi nhờ Mỹ, thì Mỹ nó kẹp è cổ.
Bên ta, miền xuôi nhiều vùng du kích đã nối liền
với nhau, những đất đai rộng lớn đã được giải phóng. Đồn bốt giặc như các đảo
chơi vơi trong biển cả. Vị trí hiểm ác như Non Nước, như Phú Chạng, Mộc Châu
cũng hạ được rồi. Phần lớn chiến sĩ đã thấy gia đình được nhận đất. Phù Đổng đã
đứng lên.
Tám năm, công nuôi dạy của Đảng, của nhân dân,
một trận to lớn có thể đến rồi đây.
+ + +
Nóng ruột quá! Đã đành rằng anh em làm thì
cũng như mình làm, nhưng một không khí mới đang nổi lên, mà mình cứ “ốm đứng”
thế này, thì buồn thật.
Một đồng chí thủ trưởng Cục lên Bộ họp về bảo:
“Anh sửa soạn đi chiến dịch”.
Mừng gần như nhảy lên được.
Hỏi ra, thì một đồng chí bên Bộ kể rằng: Đồng
chí Tổng tư lệnh hỏi: Anh Thủy đâu?
- Anh Thủy ốm.
- Ốm, thì bảo người khiêng ra xe tôi ấy.
Cách điều động cương quyết thật!
+ + +
Có ý kiến là chiến dịch này không quan trọng!
Đối với mình, thì cái vấn đề không phải ở đấy.
Có nhiệm vụ là làm. Mà làm tốt!
Nhận được 40 cây số dây và một trung đội vô
tuyến điện do đồng chí Dương Quốc Hưng phụ trách, thêm một cái áo cánh bông tay
dài. Lên xe. Có xe, là lạ quá đi rồi! Ngày 5 tháng 1 năm 1954.
Sớm hôm sau, ngừng ở một khu rừng. Đại trưởng
hỏi:
- Anh không ốm à?
- Thưa, có việc thì không ốm.
- Thế thì anh chuẩn bị để chiều nay nói chuyện
về ba trận nhà Trần đánh quân Nguyên. Chúng ta có một số khách. Anh không đi,
tôi không yên tâm.
Nhìn đồng chí, lâu ngày không gặp. Không mang
giáp triện mà đồng chí đã được Đảng trao cho nhiệm vụ tiết chế quân đội. Chúc
thắng lợi, đồng chí ạ..
Nhưng rồi có những điện quan trọng đến, không
có thì giờ nghe chuyện.
Địch soi sáng khắp đường đi, các bến phà. Đến
đèo Pha Đin còn chặn bằng bom nổ chậm. Làm cái gì? Suối nào chả chảy xuống đồng
bằng. Dưới bể mây, theo con suối này vẫn đến được Tuần Giáo.
Đứng ở nguồn Sông Mã, đồng chí Tổng tư lệnh
nói:
Chúng ta có đánh thắng; ở Geneve, chúng ta sẽ
thành những nhà ngoại giao giỏi.
Gặp đồng chí Hoàng Xuân Vượng, đồng chí làm
trưởng ban thông tin đi cùng đồng chí Tổng tham mưu giải phóng Lai Châu.
Ban 3 chiến dịch Điện Biên chỉ có 2 cán bộ:
Các đồng chí Lưu Phúc Thảo và Nguyễn Văn Ngoan. Thế là cũng có được một phó ban
nhiều kinh nghiệm rồi.
Có lệnh tỏa mạng ngay. Một cùng đi phía Tây
cánh đồng Mường Thanh đã ngoém gần hết 40 cây số vốn liếng rồi. Điện về nhà gửi
dây ra. Trông chừng cũng không thể đủ được.
Bộ có cái quyết định rất sáng suốt là ở mặt trận
chính chỉ huy bằng điện thoại thôi. Nhưng như thế là dây lại càng thiếu nữa..
Ông bạn pháo đã cố gắng đem tất cả các khẩu pháo lên, chỉ để thông tin ở nhà
thôi! Ban 3 phải đảm bảo thông tin cho pháo. Tiểu đoàn 303 thì phải căng ra, phục
vụ cho đường hậu cần đến 3 trăm cây số rồi, còn mạng chỉ huy, còn pháo.
Phải thương lượng với huyện Mai Sơn, mượn tất
cả dây bưu điện của huyện này. Các đồng chí cũng cho. Thật là quý hóa, sự hết
lòng với chiến dịch. Nhưng đã đủ làm sao được.
Cử đồng chí Lưu Phúc Thảo đem bộ đội và xe đến
Nà Sản đèo dây. Địch nó chạy vội, chắc còn nhiều dây đấy. Nhưng đồng chí ạ, phải
đề phòng mìn.
Đồng chí Tổng tư lệnh hỏi: Mạng thông tin cần
bao nhiêu dây. Tôi ước lượng 1500 km. Đồng
chí ngạc nhiên, cái số to thế, nhưng bên trong, đồng chí chắc cũng yên lòng về
cái khuôn khổ của công việc.
+ + +
Những tin tức đến đều phấn khởi. Tin thông báo
của Trung đoàn 101 vượt Trường Sơn, vùng vẫy trong những vùng xa lạ, phục vụ lấy
bản Nà Phao, lấy Nhom Ma Rạt, giải phóng Tà Khẹt nhiều kỷ niệm, thông tin đi
tay không, kiếm dây đặt đường tác chiến 5 kilômét, đặt đường liên tỉnh 40 cây số.
Tin gần. Một chuyển đạt viên của Trung Đoàn
174, Bế Văn Đàn, đi truyền lệnh. Về qua Mường Pồn, thấy anh em đang đánh giặc,
súng liên thanh không có chỗ tì, đồng chí đưa ngay vai mình làm giá súng. Đồng
chí Đàn hy sinh, trở thành anh hùng!
Ta chặn đường sang Lào, đóng đường Lai Châu, địch
phải dồn lại trong cánh đồng dài Mường Thanh (Mgthanh). Nó tăng cường rất mạnh
bằng đường không, ném võ khí, vật liệu, người xuống, tổ chức một tập đoàn gần
50 cứ điểm. Chắc chúng nó nghĩ rằng ta không đánh xong Nà Sản, thì không làm gì
được Điện Biên. Tập trung bao nhiêu lực lượng tinh nhuệ, bao nhiêu vũ khí, đứng
giữa 2 sân bay lớn, nó huênh hoang. Mỹ
đến cũng tấm tắc: “Không thể
đánh được”. Rõ ràng đây là một điểm quyết chiến chiến lược rồi
Ta đổi cách đánh: “Đánh chắc”.
Ở Ban 3, cùng đồng chí Hoàng Xuân Vượng, họp
các cán bộ thông tin, nêu một số điểm, ý của Bộ là chỉ huy bằng điện thoại.
Trong một thung lũng dùng 1 dây không thể giữ được bí mật. Vô tuyến điện mở mà
không dùng. Khi có trận đánh thì các đài đều phải mở, nghe. Không làm việc nếu
không có lệnh. Thu xếp để dùng được nhiều máy “bộ đàm” nhưng phải hạn chế bằng
chữ mật. Dùng vài chục chữ thôi. Chuẩn bị cho chuyển đạt có thể tăng cường cho
điện thoại được. Làm kế hoạch bổ sung huấn luyện.
Sau khi Bộ đã quyết định cách đánh trận địa, hầm
hố, lại cấp tốc họp anh em để nghiên cứu cách đặt mạng điện thoại trong giao
thông hào, ở các chỗ ngã ba, ngã tư, ở các hầm hào gần địch. Đây là điểm mới nhất
trong công tác thông tin của ta. Không chuẩn bị đặc biệt, thì không thể hoàn
thành nhiệm vụ đâu.
* * *
Phải di dời vô tuyến điện đi xa để bảo đảm an
toàn cho chỉ huy sở.
Mạng liên lạc điện thoại của Bộ không có gì lạ,
đi các đại đoàn trực thuộc, đi pháo và cao xạ. Nhưng có chỗ lạ là pháo bố trí
vòng quá nửa trận địa. Nếu có đủ dây mà làm một mạng riêng thì còn nói gì. Cứ
phải làm những đường nhánh đi từ mạng chung cho đến trận địa pháo.
Một nhiệm vụ hết sức nặng, là làm thông tin
cho pháo. Cách đặt pháo của ta ở Điện Biên, thật thần tình, nhưng số máy và dây
phải dùng, là to ghê gớm. Các đồng chí Phạm Ninh và Nguyễn Hữu Cầu còn phải đi
dọc ngang cách đồng Mường Thanh để đặt thông tin các đài quan sát cho pháo. Vì
công tác này anh em một số hy sinh. Số hy sinh to hơn số hy sinh của pháo.
Một mặt khác là đặt dây đã nhiều mà vẫn không
sao đủ. Càng phía Tây là càng chính, Bộ xuống 2 đại đoàn không sao có được 2 đường
dây. Phải đặt 1 tổng đài trung gian, tổng đài 20, đại đội Phạm Ninh. Từ đó có
dây đi 312 và 308. Đồng chí Hoàng Xuân Vượng thật là hết lòng, đồng chí nhận đến
ngồi ngay ở tổng đài ấy, để có thể trả lời ngay các yêu cầu của 2 đơn vị chủ
công. Như thế việc thông tin lên Bộ vơi bớt hẳn đi.
303 đi đặt dây gian nan lắm. Các đồng chí Sơn
(sì) và Thọ (lùn) bận rất nhiều. Núi đá cao, lên thì nhọc, nhưng mắc theo đường,
hay chỉ gần đường thôi, cũng nguy hiểm. Biệt kích cắt dây và cũng tệ, là những anh
chị em dân công cứ nhè dây điện thoại mà cắt làm quang. Nó bền lắm mà! Bộ Tổng Tham
mưu ở chiến dịch có ra một lệnh nghiêm cấm cắt dây thông tin, nhưng cái thói
“cha chung chả ai khóc” ở ta nó nặng quá. Thế tất là phải mỗi ngày lại mắc cao
lên nữa trên nghìn thước, là thường.
Đồng chí Trần Xuân Hán là tay khỏe leo núi đưa
đường dây qua những ruộng thuốc phiện no sương mù.
Chưa đánh. Nhưng tết đã đến. Sửa soạn đâu đấy
cả rồi thì bỗng đồng chí Tổng tư lệnh đến tổng đài. Đồng chí ra lệnh cho Đại
đoàn 308, sớm hôm sau phải lên đường, hướng Nam. Anh em thông tin ở 308 chuẩn bị
găng lắm, chuyển đạt của Ban 3 cũng theo hút ra đi vì đơn vị bạn đã làm gì có địa
chỉ. Cứ nhìn vết chân trên cỏ trong sương sớm mà đi.
Trung đội điện đài của Bộ nhộn lên. Làm với
các chiến trường ngoài. Nay phải đặt đài canh liên tục.
Quân đội Việt Lào tiến mạnh. Mường Khoa và Mường
Ngòi bỏ chạy trước 2 ngày. Truy kích 5 ngày, diệt 15 đại đội địch. Tàn quân
chúi vào Mường Sai. Ta vây Mường Sai và tiến sát Luông Pha Băng.
Trong đợt truy kích dài ngày này, anh em thông
tin 308 đã thay được hầu hết trang bị. Toàn đồ mới, giã gạo, thổi cơm không kịp,
đói thành thường xuyên.
Các chuyển đạt viên táo bạo lạ thường. Không
có bản đồ, mà cứ ra đi. Hai đồng chí mang công văn đi Mường Sai mà không biết ở
đâu. Đến nhà một người Lào, chào: “A phái!”, rồi nói: “Đi Mường Sai, đánh Pha
Đăng”. Người Lào chỉ một hướng trong rừng, chỉ mặt trời, ngọn cây và nóc nhà.
Hiểu ra ngay: Đi hướng ấy, khi mặt trời đến ngọn cây mà thấy mấy cái nhà. Thế
là chạy. Anh trước vừa chạy vừa xem tình hình. Anh sau đeo công văn.
Một đồng chí nữa, mang tập thiếp mừng năm mới
của Hồ Chủ Tịch. Cứ như có cánh, đi như bay. Sáu ngày gần như không ăn, không
ngủ. Đi đến hết các đơn vị. Đồng chí chuyển đạt ấy coi như là mình đem cả một kho
vũ khí đến cho anh em.
+ + +
Ngày 31 tháng 1 năm 1954, xảy ra một trận nhỏ.
Một đồn tiền tiêu của ta, đồi 836 bị đánh. Đồi này ở phía Bắc Mường Thanh, cách
địch 800 mét, ở đây, ta có một tiểu đội trinh sát và 2 tiểu đội bộ binh. Hai điện
thoại viên Tý và Ọp, đặt một đường dây chuyển tin về tiểu đoàn. Địch tấn công.
Đường chuyển tin thành đường bảo đảm chiến đấu. Địch xung phong 3 đợt, bị đánh
lui. Nó gọi pháo bắn, đường dây nát. Đồng chí chỉ huy bảo Tý mang máy về đơn vị
thôi. Tý khẩn khoản:
- Dù sao, nhiệm vụ của tôi vẫn là đảm bảo liên
lạc!
Hai anh em lao đi nối. Đứt đến 20 quãng. Thiếu
hẳn mấy trăm mét. Tý đặt máy ở lưng đồi, báo cáo về; tiểu đoàn gửi lời khen
trung đội và anh em thông tin; pháo bắn một chập nữa, cây cối đổ ngổn ngang. Nối
đợt nữa, thì máy chỉ còn có thể đặt ở chân đồi thôi. Tý giao Ọp giữ liên lạc,
còn mình, chạy tốc lên, chuyển cho anh em lời khen của tiểu đoàn và báo tin tiếp
viện đạn dược. Mọi người đều phấn chấn, tập trung lựu đạn, diệt đợt xung phong
thứ 5 của địch. Đại bác lại nổ. Tý bị thương, tai ù, đầu choáng váng, nhưng vẫn
lên xuống, chuyển tin, vác đạn. Đồng chí trung đội trưởng hy sinh, nhưng không
đổ, mắt vẫn trừng trừng nhìn địch. Đợt xung phong thứ 7 bị đánh lùi. Địch đành
rút.
Ai cũng mệt rồi. Nhưng Tý và Ọp đặt lại đường
dây chắc chắn, rồi mới đi băng bó. Tý và Ọp thật là những chiến sĩ thông tin.
(Còn nữa)
Được đăng bởi Nguyễn Quang Hưng
0 comments:
Đăng nhận xét