Trong miền ký
ức của ba tôi - nhà văn Sơn Tùng đã có hình bóng Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay
từ khi còn là học sinh Trường tư thục Vũ Đăng Khoa, thị trấn Cầu Giát.
Tiếp đến những
năm tháng nghe theo tiếng gọi Tổ quốc xếp lại bút nghiên lên đường, ông cùng
Phan Hồng Thực, Trịnh Keng, Hồ Hải Kháng, Đặng Văn Thắng vào Trường lục quân Trần
Quốc Tuấn khóa VI năm 1950. Và sau này trên chặng đường đi tìm “Đi tìm ẩn tích
Hồ Chí Minh” ba tôi mới có điều kiện được kiến diện Đại tướng và ông đã nhận được
tình cảm của Đại tướng bằng những tác phẩm viết về Bác Hồ và các vị lãnh tụ kiệt
xuất của lịch sử như Búp sen xanh, Bông sen vàng, Trái tim quả đất..., “Cảm” bằng
sức lao động của một nhà văn thương binh hạng nặng 1/4, sức khỏe còn 19%. “Cảm”
bằng nhân cách, sự khẳng khái, quan niệm và đức tin của một nhà văn. Còn tôi lại
có cái may hơn mấy anh chị em trong gia đình là được sống cùng ba mẹ nên mới biết
được đôi ba câu chuyện về con người vĩ đại này.
Tôi nhớ, từ
sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ
tướng về nghỉ hưu, hàng năm đến ngày sinh nhật (25/8), Ngày thành lập quân đội
(22/12) và ngày Tết Nguyên đán, ba tôi dẫn đầu anh em chiếu văn, có khi cùng
con cháu trong gia đình lên chúc mừng Đại tướng sau khi được Đại tá Nguyễn Huyên,
Thư ký của Đại tướng cho phép. Ngày đó chiếu văn sinh hoạt rất đông khoảng trên
30 người, họ là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà học giả,
nhà giáo, nhà báo, giáo sư, nhà ngoại giao, chuyên viên cao cấp chính phủ quân
đội... như: Sơn Tùng, Minh Giang, Mạc Phi, Siêu Hải, Mai Hồng Niên, Văn Cao, Đặng
Đình Hưng, Đào Phan, cụ Nguyễn Trọng Phấn, GS. Viễn Đông Bác Cổ, Phan Ngọc, Hồ
Sỹ Giàng, Hồ Sỹ Bằng, Hoàng Nhật Tân, Trần Bá, Cao Ngọc Thắng, Phùng Văn Mỹ,
Hoàng Kính, Trần Văn Chan, Kim Côn, Thiếu tướng Đỗ Đức Dục, cụ Ngô Thức, Nguyễn
Văn Hiến, Đậu Quý Hạ, Phan Hữu Phúc, Phạm Quốc Vinh, cụ Phí Văn Bái, Phạm Hiện,
Trần Văn Hà, Lê Văn Điêng... Đại đa số anh em chiếu văn ngày ấy đều có hoàn cảnh
khó khăn nên quà mừng Đại tướng chỉ có sách báo, tranh ảnh do anh em sáng tác,
sưu tầm, hoặc góp tiền lại để mẹ tôi lên phố Hàng Quạt đặt thêu bức trướng chúc
mừng, còn phần lời chúc thường do ba tôi sáng tác sau nhiều hôm trăn trở, cũng
có khi là hộp bánh, bó hoa, phong kẹo sôcôla ngoại.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi thiền.
Thường vào những
ngày kỷ niệm như thế này, có hàng trăm đoàn khách từ khắp nơi trong và ngoài nước
xếp hàng chờ đợi đến lượt vào chúc mừng Đại tướng, nên thời gian rất hạn chế
trong khoảng 30-40 phút, vừa đủ cho anh em trong chiếu văn chào hỏi, chúc tụng
và có dịp tặng sách, chụp ảnh chung với Đại tướng. Do đó, trước khi chào tạm biệt
ra về, ai nấy cũng cảm thấy luyến tiếc. Trong những dịp gặp nhau hiếm hoi như vậy,
tôi thấy điều đầu tiên bao giờ Đại tướng cũng chủ động cầm lấy đôi bàn tay
thương tật của ba tôi vừa đưa ra chào mà nói: “Sơn Tùng có khỏe không, anh ngồi
đây với tôi”. Nhiều lần ba tôi giữ ý tìm cách đứng xa một chút để anh em khác
có được điều kiện chụp ảnh chung với Đại tướng làm kỷ niệm.
Mùa thu năm
1993, tôi có may mắn được ngồi hầu chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần 2 tiếng
đồng hồ.
Nguyên do tôi
có được diễm phúc đó là hôm sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp 25/8/1993, trong
đoàn chiếu văn lên chúc mừng có thêm nhà thơ Hồ Khải Đại, người Quỳnh Đôi đem
theo món quà mừng là một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Nho viết trên giấy hồng điều,
bài thơ đó như sau:
Chung thân bằng hữu thị nhân dân
Vi tướng vi sư vi nghĩa nhân
Văn Võ song toàn Nguyên Giáp giả
Tâm tri thiên hạ sự như thần.
Sơn Tùng dịch
thơ:
Trọn đời vì nước vì dân
Là thầy, là tướng, nghĩa nhân làm đầu
Võ Văn Nguyên Giáp song toàn
Như thần thấu suốt nhân gian lòng người.
Vì bài thơ viết
trên giấy sợ để lâu ngày sẽ phai, hơn nữa đã là trướng mừng thọ bậc “Trưởng
lão” phải được thêu trên vải điều mới trang trọng. Vì vậy, sau khi ra về chú
Hoàng Kính nói với mọi người: “Chúng ta nên xin lại bài thơ đó, rồi nhờ chị Mai
(tên mẹ tôi) lên Hàng Hòm đặt thêu, phần kinh phí tôi sẽ chịu, còn anh Sơn Tùng
dịch nghĩa để mọi người hiểu hết ý thơ”.
Từ lý do
trên, khoảng một tuần sau ngày sinh nhật, hai mẹ con lên nhà Đại tướng bằng chiếc
xe đạp cũ mà tôi thường đi làm hàng ngày. Lúc đó vào độ 4-5 giờ chiều, có lẽ giờ
này Đại tướng đã vắng khách nên tôi thấy cửa phòng khách gia đình đầu hồi hướng
đối diện với phòng làm việc quân cơ không mở, mà chỉ mở cánh cửa hướng ra khu
vườn phía đường Hoàng Diệu. Trước khi đi mẹ tôi đã gọi điện cho Đại tướng nói
rõ lý do, nên hai mẹ con vừa bước lên bậc tam cấp vào nhà đã thấy Đại tướng ngồi
đợi trên ghế salon, trên bàn để sẵn bài thơ của nhà thơ Hồ Khải Đại.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà văn Sơn Tùng
trong buổi trò chuyện về thiền
- “Em chào
anh, hai mẹ con em lên xin lại anh bài thơ”. Mẹ tôi chủ động chào và nói với Đại
tướng.
- “Chị với
cháu ngồi xuống đây uống nước”. Đại tướng vừa nói vừa chỉ tay xuống hai chiếc
ghế salon đơn bọc nệm phía đối diện. Rồi hỏi tiếp: “Anh Sơn Tùng có khỏe không
chị”.
Tôi nhanh nhảu
trả lời: “Thưa bác, mấy hôm nay thời tiết thay đổi nên ba cháu lại đau vết
thương trên đầu”. Tôi vừa ngừng lời thì mẹ tôi nói tiếp: “Khổ quá anh ạ, anh
nhà em còn mấy mảnh đạn trong đầu, thỉnh thoảng lại nhô lên làm chảy máu buốt
nhói như dao đâm, nhưng em chẳng biết làm sao”.
Nghe mẹ con
tôi nói thế, gương mặt Đại tướng thoáng buồn, đôi mắt hướng vào tôi hỏi “Thế bố
cháu hàng ngày sinh hoạt thế nào, dạo này ăn uống ra sao?
- “Thưa bác,
ba cháu thường dậy từ lúc 2-3 giờ sáng ngồi thiền, thiền xong thì đi xuống sân
tập thể lấy nước để tắm rửa vệ sinh, rồi lên thắp hương ban thờ gia tiên, sau
đó mới ngồi vào bàn viết; nếu không viết được gì thì đọc sách cho đến 9-10 giờ
sáng, khi có khách đến lại ra tiếp khách. Còn ăn uống thì ba cháu ăn ít lắm, mỗi
bữa chừng non nửa bát cơm, chủ yếu ba cháu ăn rau nhiều”.
Nghe tôi nói
thế, Đại tướng trầm ngâm, đôi mắt hướng nhìn ra hàng cây cổ thụ đứng lặng trong
khu vườn phía đường Hoàng Diệu một lát sau, nhìn mẹ tôi ông nói với giọng dặn
dò “Tôi nghe nói rau gì bây giờ cũng nhiễm nhiều thuốc trừ sâu lắm chị nhé, bởi
vậy chị nên mua giá đỗ cho anh Sơn Tùng ăn; rau giá đỗ lành, rất tốt lại bảo đảm
không bị nhiễm thuốc sâu, tôi vẫn thường xuyên ăn rau giá đấy. Còn cháu nói bố
cháu buổi sáng ngồi thiền là thiền như thế nào?”. Ông nhìn tôi hỏi.
Tôi trả lời:
“Thưa bác ba cháu ngồi thiền theo lối “tọa thiền”, nhưng cháu chịu không làm được”.
Vừa nói dứt câu, tôi thấy Đại tướng ngồi lùi sát thành ghế salon rồi co hai
chân lên để chuẩn bị ngồi theo lối “tọa thiền”. Tôi sợ ông ngồi “tọa thiền”
trên ghế salon bọc nệm mút sẽ rất khó nếu không khổ luyện qua hàng chục năm trời,
nên vội bước tới đỡ chân, nhưng Đại tướng xua tay và nói, “Không cần đâu, bác tự
làm được”. Rất nhanh, hai chân bắt chéo hình hoa sen, hai bàn tay để lên hai
vai, hai mắt nhắm hờ, Đại tướng hỏi tôi: “Có phải bố cháu ngồi thiền như thế
này không?”
- Tôi trả lời:
“Ba cháu ngồi như thế nhưng hai bàn tay úp vào nhau và để trước ngực”.
Thấy tôi nói
thế, Đại tướng liền đổi tư thế như tôi vừa trình bày. Chưa đầy 5 phút ông đã nhập
thiền, tôi lặng ngắm nhìn Đại tướng, giờ đây trông ông như một vị Bồ Tát đang
niệm kinh cứu độ chúng sinh.
Sau khi nhập
“thiền” xong, Đại tướng trở lại thế ngồi bình thường rồi nói với hai mẹ con.
“Tôi có nghe nói người ta xây nhà tình nghĩa cho Sơn Tùng nhưng không hiểu sao
anh chị không nhận?”. Mẹ tôi có ý để tôi thưa chuyện với Đại tướng nên ngồi im;
biết ý, tôi thay mẹ kể hết cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện. Cuối cùng tôi nói
thêm: “Thưa bác, ba cháu rất cảm động khi biết Thành đoàn Hà Nội chủ động khởi
xướng và bỏ ra 13 triệu đồng để xây nhà tình nghĩa và ba cháu cũng rất biết tấm
lòng của lãnh đạo quận Đống Đa lo cấp đất gần nơi ở cũ để xây nhà, những nghĩa
cử đó không bao giờ quên. Nhưng ba cháu cũng nghĩ rằng: Nơi ở hiện tại tuy chật
không được khép kín, nhưng bù lại sống ở đấy cũng thấy yên tâm, vì xung quanh
là bà con trong khu tập thể đều nghèo, chất phác, hơn nữa mọi người ở đấy sống
được thì mình cũng sống được. Vì vậy ngôi nhà tình nghĩa kia xin nhường cho người
khác có khó khăn hơn”.
Sau khi nghe
tôi kể xong câu chuyện trên, không biết trong lòng Đại tướng nghĩ gì, nhưng tôi
thấy ông ngồi im, đôi mắt trĩu xuống. Đại tướng cứ ngồi lặng đi như thể hóa đá,
cho đến khi giáo sư Đặng Bích Hà từ phía sau phòng khách bước ra, tôi nghĩ chắc
đến giờ ăn cơm, nên hai mẹ con tôi đứng dậy chào và nhận lại bài thơ trên tay Đại
tướng, rồi xin phép ra về khi trời đã nhá nhem tối.
Chuyện Đại tướng
biết thiền tôi về kể lại với ba tôi, ông nói: “Anh Văn có hai sở thích là đánh
đàn pianô và chụp ảnh.Trong album của gia đình, có rất nhiều ảnh do ông tự chụp
và chụp bằng máy ảnh của mình, còn việc đánh đàn ngay từ sau khi hòa bình được
lập lại trên miền Bắc, anh Văn đã tập học đàn do cô giáo Nguyễn Thị Hồng Hạnh,
vợ nhà văn Đào Vũ hướng dẫn. Và cách nay chừng 30 năm, ba có diễm phúc đã được
nghe Đại tướng công diễn bản giao hưởng bốn chương: “Điện Biên Phủ” do Đại tướng
và ông Lê Liêm sáng tác. Riêng chuyện Đại tướng ngồi tọa thiền có lẽ ít người
được chứng kiến, nhưng ba tin anh Văn từ nhỏ đã tinh thông “nho học”, sau này lại
là một cử nhân luật kinh tế, một nhà giáo, một nhà báo, nhà sử học, luật học,
nhà khoa học, nhà chiến lược và một thiên tài quân sự. Chừng ấy vốn liếng cũng
đủ nói lên anh Văn là một nhân tướng phương Đông tinh thông “nho, y, lý, số” lại
sống gần Bác Hồ nhiều năm, nên chuyện anh Văn biết thiền cũng là lẽ tự nhiên
thôi”. Tôi nhớ, sau khi thêu xong bức trướng về bài thơ của nhà thơ Hồ Khải Đại
trên nền lụa điều, ba phía viền tua vàng rất trang trọng, ba tôi cùng hai cha
con chú Hoàng Kính lên nhà Đại tướng. Tại phòng khách gia đình, hai người lại
có dịp ngồi đàm đạo thêm với nhau những kinh nghiệm về các thế thiền và lợi ích
của thiền trong nỗi lo công việc hàng ngày“Vạn sự như lôi nhất tâm thiền định”.
Sơn Định (báo SK&ĐS)
Đăng bởi Quang Hưng
0 comments:
Đăng nhận xét