5.3.25

Bảo đảm thông tin liên lạc Chiến dịch Hồ Chí Minh

Đại tá Đặng Khắc Thỏa

1. Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của quân và dân ta ở miền Đông Nam Bộ và các chiến trường khác, đặc biệt đòn chiến lược thắng lợi ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng đã đưa đến giải phóng hoàn toàn một dải đất rộng lớn gồm 16 tỉnh, 6 thành phố, chiếm ba phần tư diện tích và gần nửa dân số miền Nam. Những chiến thắng đó đã tạo ra tiền đề vô cùng thuận lợi cho trận quyết chiến cuối cùng chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Ngày 31 tháng 3 năm 1975 Bộ Chính trị quyết định "Nắm vững thời cơ", với tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", quyết tâm thực hiện tổng công kích - Tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, Quân ủy Trung ương đã nhanh chóng chuyển lực lượng của các quân đoàn và binh khí kỹ thuật vào B2.

Ngày 9 tháng 4 năm 1975 tại Tà Thiết (Lộc Ninh) Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng với cương vị Chính ủy, đồng chí Trần Văn Trà và Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh.

19 giờ ngày 14 tháng 4 năm 1975, bức điện 37/TK của Bộ Chính trị gửi đến mặt trận toàn văn như sau: "Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh".

2. Nhiệm vụ của các quân đoàn, mục tiêu đánh chiếm.

Chiến dịch Hồ Chí Minh hình thành các hướng:

Quân đoàn 1 hướng Bắc gồm có các sư đoàn bộ binh 320B, 312; đồng chí Nguyễn Hòa làm Tư lệnh, Hoàng Minh Thi - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin. Chủ nhiệm thông tin đồng chí Trần Sơn.

Quân đoàn 2 hướng Đông gồm có Sư đoàn bộ binh 304, 325 và Sư đoàn bộ binh 3 Quân khu 5; đồng chí Nguyễn Hữu An làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Dinh Độc Lập. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin, Chủ nhiệm thông tin - đồng chí Nguyễn Khắc Ban.

Quân đoàn 3 hướng Tây Bắc gồm có các sư đoàn bộ binh 10, 316, 320. Đồng chí Vũ Lăng làm Tư lệnh, Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin 29, Chủ nhiệm thông tin Hồ Trọng Tuyến.

Quân đoàn 4 hướng Đông Bắc gồm có Sư đoàn bộ binh 7 và 341, Sư đoàn bộ binh 6 Quân khu 7 và Lữ đoàn 52 Quân khu 5 (dự bị). Đồng chí Hoàng Cầm – Tư lệnh, Hoàng Thế Thiện - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu, cảng Bạch Đằng, Đài phát thanh. Lực lượng thông tin có Trung đoàn thông tin, chủ nhiệm thông tin Trần Ngọc Thư.

Đoàn 232 hướng Tây gồm có các sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Trung đoàn bộ binh 16, do đồng chí Nguyễn Minh Châu làm Tư lệnh, Nguyễn Văn Tưởng - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm biệt khu thủ đô. Lực lượng thông tin gồm có các tiểu đoàn 32, 33, 37 do đồng chí Nguyễn Duy Nhượng làm Chủ nhiệm.

Quân khu 8 hướng Nam do Quân khu 8 chỉ huy, các trung đoàn bộ binh 24, 88, 271B, mục tiêu đánh chiếm là Tổng nha Cảnh sát.

3. Nhiệm vụ thông tin chiến dịch, tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc.

Ngày 10 tháng 4 năm 1975, cơ quan thông tin Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở hợp nhất cơ quan thông tin Bộ Tư lệnh chiến trường B2 và cơ quan thông tin Sở chỉ huy tiền phương của Bộ ở Chiến dịch Tây Nguyên vào. Đồng chí Nguyễn Xuân Thăng phụ trách trưởng. Đồng chí Hoàng Niệm và Nguyễn Xuân Đào phụ trách phó.

Lực lượng thông tin gồm có các tiểu đoàn 34, 36, 38, 39, 40, 41, 45, Bộ Tư lệnh Thông tin tăng cường ba tiểu đoàn 2, 4, 7 và 1 xe trinh sát kỹ thuật phục vụ cho Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch xuống các cánh.

Nhiệm vụ của cơ quan và các đơn vị thông tin chiến dịch được Bộ chỉ huy chiến dịch giao:

1. Giữ vững thông tin liên lạc với Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ở Hà Nội.

2. Tổ chức thông tin liên lạc chỉ huy các binh đoàn chủ lực (1, 2, 3, 4, 232) đột kích từ ngoài vào bằng 5 cánh quân, trong đó Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 là hướng chủ yếu chiến dịch. Tổ chức thông tin vượt cấp đến các sư đoàn bộ binh 7, 9, 10, 304, 320. Bảo đảm thông tin đến các lực lượng chiến đấu ở ven đô và nội đô. Chỉ huy các cụm pháo binh chiến dịch đánh vào các mục tiêu quy định theo thời gian và kế hoạch thống nhất, chỉ huy các cụm cao xạ, tên lửa, phòng không chiến dịch. Chỉ huy các hành lang chiến dịch và tổ chức thông tin liên lạc chỉ đạo các quân khu thực hành tiến công theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch.

3. Tổ chức thông tin hiệp đồng giữa các quân đoàn với các lực lượng chiến đấu bên trong, giữa các cụm pháo binh chiến dịch với các lực lượng ở ven đô, nội đô.

4. Tổ chức thông tin liên lạc cho trinh sát nắm địch do cấp trên thông báo hoặc do các đơn vị tham gia chiến dịch cung cấp, nhất là các nguồn tin của trinh sát kỹ thuật và thông tin kịp thời xuống các đơn vị tham gia chiến dịch.

5. Tổ chức thông tin liên lạc để chỉ huy các Đoàn Hậu cần chiến dịch.

Nhiệm vụ của cơ quan chiến dịch rất nặng nề, bảo đảm thông tin liên lạc cho một chiến dịch quy mô lớn chưa từng có, hiệp đồng nhiều hướng, nhiều binh chủng và binh khí kỹ thuật. Kết hợp tiến công và nổi dậy đánh vào một thành phố đông dân với nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng. Thời gian triển khai gấp, địa hình chưa được nghiên cứu trước. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy có được tăng cường và cải tiến một bước, nhưng biên chế các đơn vị thông tin tham gia chiến dịch chưa đồng bộ và thống nhất, chưa có lực lượng thông tin dự bị mạnh.

Căn cứ vào yêu cầu thời gian và nhiệm vụ, cơ quan thông tin chiến dịch phân công nhiệm vụ cho các tiểu đoàn như sau:

- Tiểu đoàn 2 triển khai Tổng trạm Sở chỉ huy tiền phương.

- Tiểu đoàn 7 triển khai đường dây đi Quân đoàn 1.

- Tiểu đoàn 45 dây trần triển khai đường dây đi Quân đoàn 3.

- Tiểu đoàn 40 (nội cần) phục vụ Sở chỉ huy cơ bản.

- Tiểu đoàn 36 vô tuyến điện thoại, báo, tiếp sức liên lạc các cánh.

- Tiểu đoàn 38 phụ trách cụm vô tuyến điện báo Sở chỉ huy tiền phương.

- Tiểu đoàn 44 phụ trách cụm vô tuyến điện báo Sở chỉ huy cơ bản.

- Tiểu đoàn 4 liên lạc vô tuyến điện tiếp sức chiến dịch.

- Tiểu đoàn 34 bảo đảm quân bưu chiến dịch.

Tiểu đoàn thông tin A13 quân báo và A99 tình báo (tương đương tiểu đoàn) do Phòng Quân báo và tình báo chỉ huy.

Thông tin Hậu cần (tương đương tiểu đoàn) do Cục Hậu cần chỉ huy.

Sau khi nhận nhiệm vụ, ngày 25 tháng 4 năm 1975 đã hoàn chỉnh mạng thông tin liên lạc nội bộ Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch. Nối thông với trạm tiếp sức chuyển tiếp Núi Ông và các vị trí mới của các đài vô tuyến điện báo. Do tổ chức chu đáo, tất cả hệ thống thông tin bảo đảm vững chắc, nhất là liên lạc vô tuyến điện với các quân khu, quân đoàn, sư đoàn, tỉnh, thành, các binh chủng đều được thông suốt trước khi bước vào ngày N.

4. Giai đoạn nổ súng đánh chiếm ngoại vi.

17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, lực lượng toàn B2 tiến công các tuyến phòng thủ trực tiếp Sài Gòn. Thực hành bao vây cô lập triệt để Sài Gòn, tạo thế thuận lợi cho tổng tiến công.

Lực lượng thông tin của chiến dịch, các quân đoàn, các binh chủng, các quân khu đã phát huy tối đa các phương tiện trên các hướng bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy, hiệp đồng được thông suốt liên tục giữa các quân đoàn với quân đoàn, giữa quân đoàn với pháo binh, đặc công được nhịp nhàng trong quá trình tiến công từ bên ngoài vào trong.

- Quân đoàn 1: Tiểu đoàn 7 tiếp tục kéo đường dây hữu tuyến điện đến vị trí xuất phát tiến công phục vụ cho Quân đoàn bước vào chiến đấu đánh chiếm Tân Uyên, mở đoạn Bình Mỹ, Bình Cơ trên lộ 16 để triển khai lực lượng đánh chiếm nội đô.

- Quân đoàn 2: Bảo đảm bằng các phương tiện vô tuyến điện, nhất là tiếp sức để tấn công căn cứ thiết giáp Nước Trong, chi khu Đức Thạnh, Long Thành. Đặt trận địa pháo 130 ly ở Nhơn Trạch để bắn vào Tân Sơn Nhất. Ngày 27 tháng 4 giải phóng thị xã Bà Rịa, phát triển đánh chiếm Vũng Tàu.

- Quân đoàn 3: Thông tin chiến dịch phát triển đường dây hữu tuyến điện đến Bời Lời để Quân đoàn 3 thực hành cắt lộ 22, lộ 1, tiêu diệt đồn bốt địch, chia cắt sư đoàn 25 ngụy.

- Quân đoàn 4: Tiến công theo đường số 1, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành chiếm khu Trảng Bom, phát triển về Biên Hòa nhưng bị tuyến phòng thủ của địch ngoan cố phản kích quyết liệt. Chiến sự diễn ra ác liệt. Thông tin Quân đoàn 4 tổ chức bảo đảm thông tin cho 3 mũi tiến công về Hố Nai - Biên Hòa, quân đoàn 3 ngụy, sân bay Biên Hòa, đã mở cánh cửa "thép" cho các quân đoàn đánh vào Sài Gòn.

- Đoàn 232: Trên cơ sở đường dây trần cột gỗ (đã triển khai từ trước đến Lò Gò). Từ đó đặt tiếp sức, kéo tiếp đường dây bọc đến Sở chỉ huy Đoàn 232. Bảo đảm Đoàn 232 chỉ huy Sư đoàn bộ binh 5 cắt đứt lộ 4. Sư đoàn bộ binh 3 đánh chiếm Lộc Giang, Hậu Nghĩa. Hai trung đoàn đặc công 115, 117 đánh chiếm Phú Lâm, mở đường cho Sư đoàn bộ binh 9 đánh vào Sài Gòn.

- Quân khu 8: Cắt hoàn toàn đoạn lộ 4 (từ ngã ba Trung Lương đến giáp Tân An).

- Quân khu 9: Khống chế hẳn đoạn Cán Vẫn - Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng sông Cửu Long bị băm nát.

5. Giai đoạn đánh chiếm 5 mục tiêu bên trong.

Sở chỉ huy chiến dịch hoạt động nhộn nhịp trong đêm 29 tháng 4 năm 1975, những mái đầu bạc xen kẽ mái tóc xanh, cặm cụi trên bản đồ. Phía sau một dãy máy điện thoại dã chiến làm việc không ngừng. Các máy vô tuyến điện truyền vào không trung những tín hiệu, đó là những chỉ thị bổ sung của Bộ, của chỉ huy chiến dịch gửi xuống tất cả các đơn vị trước 0 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

- Cho pháo 130 ly ở Nhơn Trạch thôi bắn vào Tân Sơn Nhất.

- Phổ biến, kiểm tra các ký hiệu, tín hiệu hiệp đồng khi đánh vào nội thành.

- Giao cho Quân đoàn 3 đánh vào Tân Sơn Nhất thì cho một cánh đánh sang Bộ Tổng Tham mưu ngụy phối hợp với Quân đoàn 1.

- Tất cả các binh đoàn thọc sâu, tiến gấp, tiến thẳng đến các mục tiêu quy định.

Thật là giây phút tuyệt vời: "Đây là dàn nhạc hợp xướng đang cất lên không trung bài ca bất tử: "Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng".

Giờ "G" ngày "N" của Chiến dịch Hồ Chí Minh là 00 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, giờ quy định hợp đồng cho tất cả các cánh quân tiêu diệt quân địch còn phòng thủ, chọc thủng vào 5 mục tiêu trọng yếu nhất theo quy định. Đó là giờ quy định cho tất cả tổ biệt động, các đơn vị đặc công từ nơi ém quân đứng dậy đánh địch từ bên trong. Chiếm lĩnh các mục tiêu được giao và bắt liên lạc với các cánh quân từ ngoài vào.

Thông tin từ chiến dịch đến các quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, thông tin các binh chủng đặc công, biệt động, thông tin các tỉnh, thành,v.v... đã tập trung cao độ, sử dụng đồng thời các phương tiện trên từng hướng, để đảm bảo cho trận quyết chiến cuối cùng của lịch sử được thông suốt kịp thời trên từng hướng.

- Hướng Tây Bắc Quân đoàn 3: Tiến công tiêu diệt Đồng Dù, căn cứ sư đoàn 25 ngụy, bắt sống tên tướng Lý Tòng Bá, chiếm giữ Cầu Bông trên đường 1, đánh chiếm Hóc Môn. Thông tin chiến dịch đã bảo đảm hiệp đồng cho Trung đoàn Gia Định và Trung đoàn đặc công 115 giải phóng xã Tân Thới Hiệp và mở cửa phía bắc sân bay chờ Quân đoàn 3 đến đột phá tiến công đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và gặp phái đoàn quân sự ta tại trại Đa-vít.

- Hướng Bắc Quân đoàn 1: Đánh chiếm thị trấn Tân Uyên, tiến công thẳng xuống Lái Thiêu. Toàn bộ sư đoàn 5 ngụy bị bao vây. Thông tin đã đảm bảo hiệp đồng cho cánh quân Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 phối hợp với bộ đội địa phương bao vây toàn bộ sư đoàn 5 ngụy, buộc chúng phải treo cờ trắng đầu hàng. Quân đoàn 1 vượt qua cầu Bình Phước do Trung đoàn đặc công 115 đánh chiếm, để tiến vào mục tiêu chủ yếu là Bộ Tổng Tham mưu ngụy và bộ tư lệnh các binh chủng.

- Hướng Đông Bắc Quân đoàn 4: Sau khi đánh thẳng vào sân bay Biên Hòa, thị xã Biên Hòa, sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy. Sáng 30 tháng 4 năm 1975 đánh vào Sài Gòn, khi đến cầu Ghềnh xe tăng không qua được, phải quay đội hình trở lại xa lộ Biên Hòa, theo sau Quân đoàn 2 đánh vào Sài Gòn chiếm trụ sở Bộ Quốc phòng ngụy, căn cứ hải quân và đài phát thanh.

- Hướng Đông Quân đoàn 2: Thông tin Quân đoàn 2 đã phối hợp tổ chức hiệp đồng cho Quân đoàn tiến quân vào Quận 9. Cánh chủ yếu đánh vào Sài Gòn. Đi đầu là Lữ đoàn xe tăng 203 đến cầu xa lộ Đồng Nai, bộ binh còn ở xa phía sau chưa lên kịp, nhưng lệnh của Quân đoàn phải đánh chiếm nhanh Dinh Độc Lập trong ngày. Lữ đoàn 203 đã hiệp đồng với Trung đoàn 66 có khả năng tác chiến như bộ binh, nắm chắc đường và các khu vực. Trung đoàn 66 để lại một bộ phận giữ cầu, toàn bộ ngồi trên xe tăng Lữ đoàn 203 cùng hiệp đồng chiến đấu. Đoàn xe hùng dũng tiến về Dinh Độc Lập. Khi đến Trường Sĩ quan Thủ Đức, địch dùng pháo bắn thẳng vào đội hình, Lữ đoàn tổ chức thành 2 mũi đánh vào trận địa Liên Thường (xã Tân Nhơn Phú). Khi đến cầu Rạch Chiếc, gần cầu Tân Cảng, nhiều đạn bắn ra từ hai bên đường, lập tức các đơn vị đặc công nhảy xuống chiến đấu bắt sống nhiều địch. Đoàn xe tiếp tục hành tiến, chiếc xe T54 số 843 đi đầu được nữ đồng chí Nga dẫn đường đã húc vào cổng Dinh Độc Lập từ 11 giờ 10 phút. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận dẫn đầu lên cắm cờ trước Dinh Độc Lập đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập sáng 30/4/1975. Ảnh tư liệu.

- Hướng Tây Đoàn 232: Thông tin Đoàn 232 đã tổ chức mạng hiệp đồng từ trước cho Trung đoàn đặc công 429, 117 phối hợp cánh Tây đánh chiếm một số mục tiêu then chốt, mở đường cho bộ phận chủ yếu Sư đoàn bộ binh 9 thọc sâu từ Mỹ Hạnh, Vĩnh Lộc đánh thẳng vào ngã tư Bảy Hiền, tiến chiếm mục tiêu chủ yếu Biệt khu Thủ Đô vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

- Hướng Nam Quân khu 8: Trung đoàn bộ binh 24 phối hợp cùng đặc công đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, đến 10 giờ chiếm bộ tư lệnh cảnh sát. Trung đoàn bộ binh 88 sau khi diệt bốt Đa Phước, bức hàng đồn Ông Thìn, 18 giờ 30 phút chiếm khu vực Nhà Bè.

Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy, quét sạch quân địch và tự giải phóng. Đúng 11 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 toàn bộ lực lượng ngụy ở thị xã Trà Vinh hạ súng đầu hàng; 14 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 toàn tỉnh Gò Công hoàn toàn giải phóng; đêm 30 tháng 4 năm 1975 quân ta làm chủ thành phố Cần Thơ; 5 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975 thị xã Mỹ Tho được giải phóng; 9 giờ ngày 2 tháng 5 năm 1975 tỉnh Long Xuyên được giải phóng. Tại đảo Phú Quốc, lực lượng trong trại giam kết hợp lực lượng địa phương và nhân dân nổi dậy giành chính quyền trên toàn đảo lúc 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

6. Đánh giá kết quả.

Chiến dịch Hồ Chí Minh, chính diện rộng trên 4 hướng, gồm 5 cánh quân, từ ngoài đánh vào bên trong, phải đột phá nhiều mục tiêu phòng thủ. Với quy mô lực lượng lớn nhất, hình thành nhiều cánh quân cấp quân đoàn, hiệp đồng nhiều binh chủng, phối hợp nhiều lực lượng đặc công, biệt động, v.v... đánh từ ngoài vào trong chiếm lĩnh 5 mục tiêu. Trên mặt trận chính, thông tin chiến dịch phải bảo đảm đồng thời phối hợp chặt chẽ với các quân khu, các tỉnh, thành cùng phối hợp hành động.

Thời gian chuẩn bị gấp rút, chiến dịch diễn ra thần tốc, táo bạo. Địch tìm mọi cách phản kích, nhưng thông tin chiến dịch đã bảo đảm cùng một lúc trên các hướng bằng mọi phương tiện sẵn có.

Hữu tuyến điện đã đảm bảo cho 3 hướng (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Đoàn 232). Vô tuyến điện đã bảo đảm cho các hướng, nhất là tiếp sức bảo đảm cho 5 hướng. Vì vậy, từ ngày N đến giờ G nổ súng thông tin đã bảo đảm cho chỉ huy chặt chẽ tới 5 quân đoàn. Bảo đảm hiệp đồng giữa Quân đoàn 2 với Quân đoàn 4 hướng Đông, giữa Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 hướng Tây Bắc và Bắc. Trên đường tiến công đánh chiếm các mục tiêu, từng hướng đã hiệp đồng liên lạc chặt chẽ với các lực lượng đặc công, biệt động..., đánh chiếm các đầu cầu, tạo điều kiện cho các quân đoàn tiến công vào bên trong.

Thông tin chiến dịch, các quân đoàn, binh chủng, quân khu, tỉnh, thành đã tập trung cao độ, mưu trí sáng tạo, dũng cảm bảo đảm thông tin liên lạc được thông suốt, kịp thời trong quá trình chiến dịch.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta sử dụng 13 tiểu đoàn thông tin, phối hợp giữa lực lượng của Bộ Tư lệnh Thông tin với Thông tin B2, với lực lượng thông tin các quân đoàn mới chuyển vào tham gia chiến dịch. Thông tin trên dưới đã đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ. Sức mạnh hiệp đồng từ trên xuống là yếu tố quan trọng, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, vững chắc trong quá trình chiến đấu.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

Truyền thống vẻ vang

Đại tá Nguyễn Ngọc Châu

Khởi đầu Đại đội 22

50 năm, chặng đường dài đã qua

Chúng ta thế hệ trẻ, già

Ôn lại truyền thống nơi ta trưởng thành

 

Bù Cho lịch sử lưu danh

Núi cao, vực thẳm! Thác ghềnh, suối

Mưa rừng, thác lũ, tiêu điều

Suối sông bờ bãi thủy triều dâng cao

 

Thuyền bè muốn vượt sông Khao

Biết bao nguy hiểm, sức nào vượt qua?

Thông tin tiếp sức chúng ta

Vượt qua tất cả, hướng ra chiến trường

 

Mười năm gối đất nằm sương

Ngày ngày lên xuống "con đường" Bù Cho

Vai gùi, chân bước sâu đo

Áo quần giày dép nát vò tả tơi!

 

Cơm ăn, gạo hấp, mì ngô…

Măng rừng thịt muối, cá khô nướng giòn!

Đêm nằm, chăn cuộn vo tròn

Cỏ khô làm đêm vẫn còn rét run...

 

Bỗng nghe chuông gọi đổ dồn

Thay ca khi giấc ngủ còn dở dang

Tin vui chiến thắng rộn ràng

Mỹ - ngụy sụt yếu ngày càng thua đau.


Xiêng Khoảng, Đường 9 - Nam Lào...

Tây Nguyên, Đà Nẵng… tuôn trào chiến công

Tên Bác chiến dịch cuối cùng

Thông tin tiếp sức được phong Anh hùng.

 

Tự hào, vinh dự vô cùng

Bảng vàng lịch sử đã từng lưu danh.

Kẻ thù mới lại hoành hành

Đánh chiếm biên giới, dân lành đau thương...

 

Tiếp sức lại gấp lên đường

Phía Nam, phía Bắc, biên cương sống còn

Kiên cường dạ sắt lòng son

Trái tim còn đập vẫn còn thông tin

 

Mừng ngày đất nước bình yên

Thông tin tiếp sức tiến lên Lữ đoàn

Chính quy hiện đại, đàng hoàng

Kỹ thuật nghiệp vụ, vững vàng tinh thông.

 

Đối lưu tiếp sức một lòng

Nối tiếp truyền thống anh hùng vẻ vang

Sự nghiệp còn lắm gian nan

Niềm tin son sắt thép gang sánh cùng.

 

Dù cho sông cạn đá mòn

Thông tin vẫn còn, tiếp sức đối lưu

Muôn vàn tình nghĩa thương yêu

Phát huy truyền thống là điều đừng quên!

12-4-2007

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

1.3.25

Thông tin vô tuyến điện tiếp sức phục vụ chiến cuộc Xuân 1975

Đại tá Nguyễn Ngọc Châu

Bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, rút toàn bộ quân đội của Mỹ và các nước chư hầu ra khỏi Việt Nam...

Do thấu hiểu bản chất và âm mưu của địch nên chúng ta không quá kỳ vọng vào thiện chí của chúng. Một mặt ta kiên quyết đấu tranh, buộc địch phải thi hành đúng những điều khoản của Hiệp định Pa-ri. Mặt khác ta tranh thủ thời kỳ hoà bình tạm thời, khẩn trương chuẩn bị phát triển lớn, tạo ra những đột biến lịch sử của cách mạng Việt Nam.

Cùng với toàn quân, toàn dân đi tới trận chiến đấu cuối cùng, bộ đội thông tin bắt đầu thực hiện kế hoạch tăng cường lực lượng thông tin ở cả 3 cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Hệ thống thông tin hữu tuyến điện đường trục Bắc - Nam phát triển tới Đắc Đam (1.284km). Lực lượng chủ yếu là Trung đoàn 132 và 136, kết hợp với Trung đoàn 596, 49 của Đoàn 559 và thông tin B3. Các đơn vị thông tin hỗn hợp của binh chủng cũng đã vào Tây Nguyên. Tuy có nhiều biện pháp về tổ chức và kỹ thuật, nhưng do cự ly quá xa, thi công theo hình thức dã chiến có nhiều nhược điểm về kỹ thuật. Vì vậy chất lượng tín hiệu rất kém (mặc dù đã qua nhiều trạm tiếp chuyển tải ba). Liên lạc bằng hữu tuyến điện từ B3 ra Hà Nội hết sức khó khăn, lúc thông, lúc tịt. Đường dây liên lạc bị đứt quãng... Từ thực tế, yêu cầu, một giải pháp tối ưu là sử dụng tuyến vô tuyến điện tiếp sức từ Hà Nội vào Tây Nguyên làm đường trục thứ hai, kết hợp với vô tuyến điện sóng cực ngắn làm đường công vụ trong phạm vi hẹp, cự ly gần.

Ngày 21 tháng 1 năm 1975, Đại đội 13 và 15 vô tuyến điện tiếp sức, do chính trị viên tiểu đoàn Phan Ngọc Đôn và tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Cử chỉ huy đã vào tới khu vực Sở chỉ huy chiến dịch.

Đại đội 13 do đồng chí Lưu Đức Doanh - đại đội trưởng, vốn là một chiến sĩ báo thoại và là một cán bộ trung cấp kỹ thuật vô tuyến điện, nên rất tường tận về kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn. Vì vậy rất năng động, sáng tạo, xử lý các sự cố và tình huống phát sinh trong thông tin trên các hướng liên lạc. Hiệp đồng tốt với các phương tiện thông tin khác trong Sở chỉ huy chiến dịch.

Được giao nhiệm vụ, đồng chí Doanh chỉ huy đơn vị triển khai đường liên lạc từ Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu đến Sở chỉ huy chiến dịch và đến Sở chỉ huy Sư đoàn 320. Do trình độ kỹ thuật sử dụng máy rất thành thạo, điều khiển giỏi, với trí thông minh linh hoạt, đồng chí Doanh đã xoay ăngten bắt liên lạc được với trạm của đồng chí Oanh ở X27 (Chư Pông) rồi tìm cách nối thông với các trạm trên đường trục tiếp sức về đến JK1 (Hà Nội).

Ngày 28 tháng 2 năm 1975 hệ thống thông tin liên lạc tiếp sức đã thông suốt và sẵn sàng chờ lệnh.

Ngày 8 tháng 3 năm 1975, đồng chí Chính ủy Lê Cư ở Hà Nội mời đồng chí Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói chuyện với đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng ở Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ở Tây Đắc Đam (ZA75) lúc 20 giờ. Trước đó toàn bộ 14 trạm trên tuyến trục hữu tuyến điện đã phải điều chỉnh hàng giờ mới thông nhưng chỉ nói được vài phút lại gián đoạn do thú rừng (voi, hươu, nai) đi ăn làm đứt dây hoặc do bộ đội ta nấu ăn không đổ nước tắt bếp nên lửa đã cháy lan ra rừng làm đứt dây, cho nên cuộc nói chuyện đã không đạt được như mong muốn.

Quá trình chuẩn bị chiến dịch nhiều anh em phải đi sửa dây bất chấp ngày đêm, mặt mũi cháy xém, ngủ rừng bị muỗi đốt đêm nên bị ốm, bị sốt rét, mắt thâm quầng nhưng vẫn nêu cao trách nhiệm hoàn thành mọi nhiệm vụ. Bạn Đào Xuân Mai đã viết:

"Chung nhau cơn sốt rét rừng,

Một viên thuốc đắng đã từng sẻ san

Gập ghềnh đèo dốc non ngàn

Vai gầy chung gánh gian nan thủa nào"...

Đúng 5 giờ ngày 9 tháng 3 năm 1975 ta nổ súng đánh chiếm căn cứ Đức Lập, trong ngày Sư đoàn bộ binh 10 đã chiếm hoàn toàn cứ điểm.

2 giờ ngày 10 tháng 3 năm 1975 lệnh tấn công vào Buôn Ma Thuột, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc đều thông suốt từ Sở chỉ huy chiến dịch đến các sư đoàn bộ binh 316, 320, 10 và các trung đoàn bộ binh 25, 95B, Trung đoàn 271, các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ, đặc công, xe tăng, công binh và Sư đoàn 968 ở Plây Ku - Kon Tum. Đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc tiếp sức thông suốt, chất lượng tốt nên tôi đã lệnh cho đồng chí Doanh đảm bảo liên tục 24/24 giờ. Quá trình diễn biến chiến dịch, chất lượng thông tin tiếp sức rất ổn định nên đồng chí Lê Ngọc Hiền đã hỏi tôi: "Sao càng ngày thông tin càng tốt thế?". Nhờ có thông tin tốt mà đồng chí Nguyễn Tuyến – Bí thư của đồng chí Văn Tiến Dũng đã ghi âm được nhiều cuộn băng trong chiến dịch này.

Ngày 12 tháng 3 năm 1975 trinh sát ta phát hiện địch lên ô tô mang theo ba lô và súng đạn ở Kon Tum và Plây Ku cho xe di chuyển về Cheo Reo (Phú Bổn) đã báo cáo kịp thời với đồng chí Văn Tiến Dũng. Đồng chí Văn Tiến Dũng nhận định: "Do mất Buôn Ma Thuột nên địch có thể bỏ Kon Tum và Plây Ku về giữ vùng đồng bằng Nha Trang - Cam Ranh". Vì vậy, đồng chí lệnh cho Sở chỉ huy di chuyển và lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng cơ động lực lượng lên chặn địch ở đông Cheo Reo. Trạm tiếp sức ZA75 đã kịp thời bắt liên lạc với trạm tiếp sức của Sư đoàn 320, kịp thời chuyển lệnh cho Phân đội 9 cấp tốc hành quân lên chặn địch ở đông Cheo Reo. Sư đoàn 320 được tăng cường Trung đoàn bộ binh 95B và một tiểu đoàn xe tăng được sự chi viện của cụm pháo binh 675 để tiêu diệt địch co cụm ở thung lũng Cheo Reo.

Lúc 18 giờ ngày 15 tháng 3 năm 1975 đồng chí Văn Tiến Dũng đã đến sở chỉ huy mới (Tây đường 14). Chỉ sau ít phút nghỉ ngơi đồng chí đã trực tiếp nói chuyện với Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp về tình hình diễn biến chiến dịch và cuối cùng đồng chí nói: "Nhiệm vụ 2 năm tới xin phép Bộ Chính trị cho tôi thực hiện luôn".

Sư đoàn 320 đã nhanh chóng hình thành thế bao vây và đồng loạt tiến công. Đến ngày 24 tháng 3 năm 1975, toàn bộ lực lượng Quân khu 2 ngụy rút chạy về Cheo Reo đã bị tiêu diệt và bắt sống.

Sau khi Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng, các sư đoàn bộ binh 10, 320 tiếp tục phát triển tiến công về đồng bằng phối hợp với các đơn vị bạn đánh chiếm Tuy Hoà, Phú Yên, Nha Trang...

Đến ngày 3 tháng 4 năm 1975 chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Đồng chí Văn Tiến Dũng lệnh di chuyển Sở chỉ huy vào R (Lộc Ninh) căn cứ của Bộ Tư lệnh B2, đồng chí yêu cầu: "Tôi đi đến đâu phải bảo đảm thông tin liên lạc kịp thời với Bộ Tổng Tham mưu và các quân khu, quân đoàn vì lúc này là "Khẩn trương, thần tốc".

Cơ quan thông tin chiến dịch chuẩn bị 3 xe vô tuyến điện 50W và 15W, 2 xe vô tuyến điện tiếp sức do đồng chí Hoàng Niệm - Phó Tư lệnh Thông tin phụ trách đi với đoàn.

Nhờ có trạm giữa thông tin tiếp sức trên đỉnh núi Bu Prăng đã được triển khai trước (cao 1.000m) nên khi đồng chí Văn Tiến Dũng nói chuyện rất kịp thời thông suốt. Sau này đồng chí Dũng dừng chân ở đâu đều có thể liên lạc (qua 7 trạm tiếp sức đường trục) về Bộ Tổng tư lệnh ở Hà Nội và các quân khu, quân đoàn đang hành quân thần tốc vào chiến trường.

Sau này tổng kết đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã nhận xét: "Tôi đi đến đâu tôi đều liên lạc được với Bộ Tổng Tham mưu và các chiến trường rất tốt".

Ngày 5 tháng 4 năm 1975 các đơn vị thông tin của Binh chủng đã tập kết tại căn cứ Bộ Tư lệnh B2 phối hợp cùng lực lượng thông tin B2 để bảo đảm cho Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh chỉ đạo các quân đoàn, sư đoàn tham gia chiến dịch.

Toàn bộ lực lượng thông tin vô tuyến điện tiếp sức tham gia chiến dịch là 69 xe - lớn nhất trong mọi chiến dịch. Để chỉ huy kịp thời Quân đoàn 4 đánh ngăn chặn địch ở Xuân Lộc, 1 xe tiếp sức do đồng chí Nguyễn Văn Thành phụ trách được phái sang Xuân Lộc phải vượt qua đường 13 do địch còn kiểm soát. Khi xe tới Mường Le (sông Bé) thì xuất hiện 20 máy bay HU-1A của địch quần đảo bắn phá. Nhờ có đồng chí Trần Văn Hải là cán bộ của cơ quan thông tin B2 dẫn đường, trạm đồng chí Thành đã đến Sở chỉ huy Quân đoàn 4 an toàn. Trạm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba.

Ngày 18 tháng 4 năm 1975, cơ quan thông tin chiến dịch đã hoàn thành kế hoạch tổ chức và bảo đảm thông tin liên lạc cho chiến dịch.

Ngày 23, 24 tháng 4 năm 1975, Bộ đội Thông tin đã hành quân vào Sở chỉ huy chiến dịch để triển khai nhiệm vụ theo kế hoạch.

Đặc biệt, trạm chuyển tiếp ở núi Ông (cao 280m) phải triển khai 10 xe thông tin tiếp sức nhưng không có đường cho ô tô lên, nên anh em vừa phải làm đường cho xe lên vừa phải triển khai nhiệm vụ phục vụ chiến đấu. Riêng trạm tiếp sức đặt trên núi Bà Đen (cao 900m) lúc này địch còn đang kiểm soát nên anh em đã bí mật triển khai thông tin kịp thời, đó là một kỳ công.

Đúng 12 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, toàn bộ hệ thống thông tin chiến dịch ở Sở chỉ huy Cam Xe đã liên lạc thông suốt theo kế hoạch.

Dự kiến lúc đầu của Bộ Tổng tư lệnh là Chiến dịch Hồ Chí Minh sẽ bắt đầu nổ súng vào ngày 28 tháng 4 năm 1975.

Tình hình quân ngụy có nguy cơ thất bại nên tổng thống Mỹ ra lệnh cho bọn cố vấn Mỹ và quân đội Mỹ còn lại di tản khỏi Sài Gòn. Trước tình thế đó, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức và giao quyền cho Trần Văn Hương. Hương lên thay Thiệu nhưng thấy tình hình không thể cứu vãn nổi nên Hương lại giao tiếp cho Dương Văn Minh.

Dương Văn Minh nhậm chức và lên tiếng đề nghị "Việt Cộng ngừng bắn để thương lượng".

Ngày 26 tháng 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận được chỉ thị của Bộ Chính trị: Lệnh tấn công ngay vào Sài Gòn bắt Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện.

Trước tình huống bất ngờ đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định vào Sở chỉ huy chiến dịch ở Cam Xe trước 2 ngày tức là ngày 26 tháng 4 năm 1975.

Do cơ quan thông tin chiến dịch đã sớm chuẩn bị kế hoạch và triển khai toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc thông suốt trước 2 ngày nên đã đáp ứng kịp thời lệnh vào sớm Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Đúng 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, Bộ chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho tất cả các mặt trận nổ súng tấn công theo kế hoạch vào Sài Gòn.

Ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân của ta thực hiện đánh tiêu diệt, đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài đúng kế hoạch (sáng 27 cụm pháo binh chiến dịch ở Nhơn Trạch bắn hơn 300 quả đại bác xuống sân bay Tân Sơn Nhất, làm rung chuyển đường phố Sài Gòn).

Ngày 28 tháng 4 năm 1975, thông tin bảo đảm tốt cho Sở chỉ huy tiền phương Quân chủng Phòng không - Không quân dẫn đường cho một biên đội 5 máy bay A37 do Nguyễn Thành Trung phụ trách, cất cánh từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom xuống khu vực máy bay địch ở sân bay Tân Sơn Nhất và trở về an toàn.

Đúng 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Bộ chỉ huy chiến dịch yêu cầu Quân đoàn 3 báo cáo tình hình, lúc này chỉ có một phương tiện thông tin duy nhất là xe tiếp sức cơ động theo Sở chỉ huy của Quân đoàn. Đồng chí Cao Minh Tám - trạm trưởng đã mời đồng chí Nguyễn Quốc Thước - Tham mưu trưởng quân đoàn lên xe tiếp sức báo cáo tình hình về Sở chỉ huy chiến dịch là: đã chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Tư lệnh chiến dịch đã hạ lệnh cho Quân đoàn 3 nhanh chóng cho một mũi cả bộ binh lẫn xe tăng vòng phía Nam phối hợp và hỗ trợ cho Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy.

Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai xe tăng 843 và 390 dẫn đầu lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 húc đổ cổng Dinh Độc Lập cùng lực lượng bộ binh Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe tăng 203 tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các của Dương Văn Minh phải đầu hàng.

Ngay sau khi quân ta chiếm được Dinh Độc Lập, Trạm tiếp sức của đồng chí Trần Xuân Thủy đi cùng đội hình của lữ đoàn xe tăng, đã tháo máy đặt lên nóc Dinh Độc Lập và bắt liên lạc với Trạm ZA75 ở Sở chỉ huy chiến dịch.

Đồng chí Thủy đã mời đồng chí Bùi Quang Thận đến báo cáo với đồng chí Văn Tiến Dũng về tình hình chiếm Dinh Độc Lập và bắt nội các Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện.

Xe vô tuyến tiếp sức P-401M mang số hiệu FB-4387 do đồng chí Trần Văn Thủy phụ trách đã bảo đảm thông tin liên lạc từ Dinh Độc Lập đến SCH Chiến dịch ZA75 ngay trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ảnh Bảo tàng Thông tin liên lạc.

12 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đồng chí Văn Tiến Dũng lệnh cho thông tin vào Sài Gòn chuẩn bị Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu. Đoàn chúng tôi hành quân cấp tốc cơ động vào Sài Gòn. Đúng 20 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 Tổng trạm thông tin Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ở Sài Gòn đã triển khai và liên lạc thông suốt.

11 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975 đồng chí Văn Tiến Dũng cùng cơ quan chiến dịch đã vào tới Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ở Sài Gòn để chỉ huy các lực lượng của ta giải phóng các khu vực còn lại ở đồng bằng Nam Bộ. Thông tin được lệnh triển khai để bắt liên lạc bằng khí tài tiếp sức của Tiểu đoàn 4 với các nơi:

- Trung ương Cục ở Thủ Đức.

- Ủy ban quân quản ở tòa nhà thượng nghị viện.

- Bộ Tư lệnh Hải quân ở cảng Bạch Đằng.

- Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ở Long Bình.

- Cục 2 ở tổng nha cảnh sát.

Đường trục tiếp sức từ Sài Gòn ra Hà Nội được giữ vững liên lạc 24/24.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Tuyến - bí thư của đồng chí Văn Tiến Dũng đã ghi âm được 40 cuộn băng cát sét qua 55 ngày đêm chiến dịch. Đó là tài liệu vô giá để lưu giữ cho Bộ Quốc phòng làm tư liệu tổng kết chiến tranh sau này. Trong tổng kết chiến dịch, đồng chí Văn Tiến Dũng đã nhận xét: "Trong điều kiện rất khó khăn phải tổ chức và đảm bảo thông tin liên lạc cho tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn nhất từ trước đến nay, cơ động cao nhưng thông tin liên lạc đã rất cố gắng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch".

Kết thúc chiến dịch có 6 đơn vị và 9 cán bộ, chiến sĩ được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng các loại, 189 đồng chí được tặng Bằng khen.

Ngày 8 tháng 9 năm 1975, Tiểu đoàn 4 tiếp sức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là một trong số những đơn vị được tuyên dương đầu tiên sau khi kết thúc chiến tranh, đó cũng là niềm vinh dự và tự hào của cả Binh chủng Thông tin liên lạc.

Thời gian đã trôi qua 32 năm, là một cán bộ đã theo dõi bộ đội tiếp sức từ những năm 1960 cho đến năm 1993 khi nghỉ hưu, đã gắn bó với anh em gần suốt cuộc đời mình. Mỗi lần kỷ niệm ngày truyền thống của đơn vị là ngày vui gặp gỡ, cùng nhau nhớ lại những năm tháng hào hùng đã qua.

Chúng ta vui mừng phấn khởi thấy Đại đội 22 ngày đầu đã phát triển thành Tiểu đoàn 4, rồi thành Trung đoàn 138 và Lữ đoàn 614. Các thế hệ tiếp sau mãi mãi tự hào về Tiểu đoàn 4 thông tin tiếp sức anh hùng, chúng ta hãy giữ gìn và phát huy truyền thống Anh hùng đó.

Ngày 19-5-1997

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)