5.3.25

Bảo đảm thông tin liên lạc Chiến dịch Hồ Chí Minh

Đại tá Đặng Khắc Thỏa

1. Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của quân và dân ta ở miền Đông Nam Bộ và các chiến trường khác, đặc biệt đòn chiến lược thắng lợi ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng đã đưa đến giải phóng hoàn toàn một dải đất rộng lớn gồm 16 tỉnh, 6 thành phố, chiếm ba phần tư diện tích và gần nửa dân số miền Nam. Những chiến thắng đó đã tạo ra tiền đề vô cùng thuận lợi cho trận quyết chiến cuối cùng chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Ngày 31 tháng 3 năm 1975 Bộ Chính trị quyết định "Nắm vững thời cơ", với tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", quyết tâm thực hiện tổng công kích - Tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, Quân ủy Trung ương đã nhanh chóng chuyển lực lượng của các quân đoàn và binh khí kỹ thuật vào B2.

Ngày 9 tháng 4 năm 1975 tại Tà Thiết (Lộc Ninh) Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng với cương vị Chính ủy, đồng chí Trần Văn Trà và Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh.

19 giờ ngày 14 tháng 4 năm 1975, bức điện 37/TK của Bộ Chính trị gửi đến mặt trận toàn văn như sau: "Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh".

2. Nhiệm vụ của các quân đoàn, mục tiêu đánh chiếm.

Chiến dịch Hồ Chí Minh hình thành các hướng:

Quân đoàn 1 hướng Bắc gồm có các sư đoàn bộ binh 320B, 312; đồng chí Nguyễn Hòa làm Tư lệnh, Hoàng Minh Thi - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin. Chủ nhiệm thông tin đồng chí Trần Sơn.

Quân đoàn 2 hướng Đông gồm có Sư đoàn bộ binh 304, 325 và Sư đoàn bộ binh 3 Quân khu 5; đồng chí Nguyễn Hữu An làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Dinh Độc Lập. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin, Chủ nhiệm thông tin - đồng chí Nguyễn Khắc Ban.

Quân đoàn 3 hướng Tây Bắc gồm có các sư đoàn bộ binh 10, 316, 320. Đồng chí Vũ Lăng làm Tư lệnh, Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Lực lượng bảo đảm thông tin có Trung đoàn thông tin 29, Chủ nhiệm thông tin Hồ Trọng Tuyến.

Quân đoàn 4 hướng Đông Bắc gồm có Sư đoàn bộ binh 7 và 341, Sư đoàn bộ binh 6 Quân khu 7 và Lữ đoàn 52 Quân khu 5 (dự bị). Đồng chí Hoàng Cầm – Tư lệnh, Hoàng Thế Thiện - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu, cảng Bạch Đằng, Đài phát thanh. Lực lượng thông tin có Trung đoàn thông tin, chủ nhiệm thông tin Trần Ngọc Thư.

Đoàn 232 hướng Tây gồm có các sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Trung đoàn bộ binh 16, do đồng chí Nguyễn Minh Châu làm Tư lệnh, Nguyễn Văn Tưởng - Chính ủy. Mục tiêu đánh chiếm biệt khu thủ đô. Lực lượng thông tin gồm có các tiểu đoàn 32, 33, 37 do đồng chí Nguyễn Duy Nhượng làm Chủ nhiệm.

Quân khu 8 hướng Nam do Quân khu 8 chỉ huy, các trung đoàn bộ binh 24, 88, 271B, mục tiêu đánh chiếm là Tổng nha Cảnh sát.

3. Nhiệm vụ thông tin chiến dịch, tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc.

Ngày 10 tháng 4 năm 1975, cơ quan thông tin Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở hợp nhất cơ quan thông tin Bộ Tư lệnh chiến trường B2 và cơ quan thông tin Sở chỉ huy tiền phương của Bộ ở Chiến dịch Tây Nguyên vào. Đồng chí Nguyễn Xuân Thăng phụ trách trưởng. Đồng chí Hoàng Niệm và Nguyễn Xuân Đào phụ trách phó.

Lực lượng thông tin gồm có các tiểu đoàn 34, 36, 38, 39, 40, 41, 45, Bộ Tư lệnh Thông tin tăng cường ba tiểu đoàn 2, 4, 7 và 1 xe trinh sát kỹ thuật phục vụ cho Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch xuống các cánh.

Nhiệm vụ của cơ quan và các đơn vị thông tin chiến dịch được Bộ chỉ huy chiến dịch giao:

1. Giữ vững thông tin liên lạc với Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ở Hà Nội.

2. Tổ chức thông tin liên lạc chỉ huy các binh đoàn chủ lực (1, 2, 3, 4, 232) đột kích từ ngoài vào bằng 5 cánh quân, trong đó Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 là hướng chủ yếu chiến dịch. Tổ chức thông tin vượt cấp đến các sư đoàn bộ binh 7, 9, 10, 304, 320. Bảo đảm thông tin đến các lực lượng chiến đấu ở ven đô và nội đô. Chỉ huy các cụm pháo binh chiến dịch đánh vào các mục tiêu quy định theo thời gian và kế hoạch thống nhất, chỉ huy các cụm cao xạ, tên lửa, phòng không chiến dịch. Chỉ huy các hành lang chiến dịch và tổ chức thông tin liên lạc chỉ đạo các quân khu thực hành tiến công theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch.

3. Tổ chức thông tin hiệp đồng giữa các quân đoàn với các lực lượng chiến đấu bên trong, giữa các cụm pháo binh chiến dịch với các lực lượng ở ven đô, nội đô.

4. Tổ chức thông tin liên lạc cho trinh sát nắm địch do cấp trên thông báo hoặc do các đơn vị tham gia chiến dịch cung cấp, nhất là các nguồn tin của trinh sát kỹ thuật và thông tin kịp thời xuống các đơn vị tham gia chiến dịch.

5. Tổ chức thông tin liên lạc để chỉ huy các Đoàn Hậu cần chiến dịch.

Nhiệm vụ của cơ quan chiến dịch rất nặng nề, bảo đảm thông tin liên lạc cho một chiến dịch quy mô lớn chưa từng có, hiệp đồng nhiều hướng, nhiều binh chủng và binh khí kỹ thuật. Kết hợp tiến công và nổi dậy đánh vào một thành phố đông dân với nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng. Thời gian triển khai gấp, địa hình chưa được nghiên cứu trước. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy có được tăng cường và cải tiến một bước, nhưng biên chế các đơn vị thông tin tham gia chiến dịch chưa đồng bộ và thống nhất, chưa có lực lượng thông tin dự bị mạnh.

Căn cứ vào yêu cầu thời gian và nhiệm vụ, cơ quan thông tin chiến dịch phân công nhiệm vụ cho các tiểu đoàn như sau:

- Tiểu đoàn 2 triển khai Tổng trạm Sở chỉ huy tiền phương.

- Tiểu đoàn 7 triển khai đường dây đi Quân đoàn 1.

- Tiểu đoàn 45 dây trần triển khai đường dây đi Quân đoàn 3.

- Tiểu đoàn 40 (nội cần) phục vụ Sở chỉ huy cơ bản.

- Tiểu đoàn 36 vô tuyến điện thoại, báo, tiếp sức liên lạc các cánh.

- Tiểu đoàn 38 phụ trách cụm vô tuyến điện báo Sở chỉ huy tiền phương.

- Tiểu đoàn 44 phụ trách cụm vô tuyến điện báo Sở chỉ huy cơ bản.

- Tiểu đoàn 4 liên lạc vô tuyến điện tiếp sức chiến dịch.

- Tiểu đoàn 34 bảo đảm quân bưu chiến dịch.

Tiểu đoàn thông tin A13 quân báo và A99 tình báo (tương đương tiểu đoàn) do Phòng Quân báo và tình báo chỉ huy.

Thông tin Hậu cần (tương đương tiểu đoàn) do Cục Hậu cần chỉ huy.

Sau khi nhận nhiệm vụ, ngày 25 tháng 4 năm 1975 đã hoàn chỉnh mạng thông tin liên lạc nội bộ Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch. Nối thông với trạm tiếp sức chuyển tiếp Núi Ông và các vị trí mới của các đài vô tuyến điện báo. Do tổ chức chu đáo, tất cả hệ thống thông tin bảo đảm vững chắc, nhất là liên lạc vô tuyến điện với các quân khu, quân đoàn, sư đoàn, tỉnh, thành, các binh chủng đều được thông suốt trước khi bước vào ngày N.

4. Giai đoạn nổ súng đánh chiếm ngoại vi.

17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, lực lượng toàn B2 tiến công các tuyến phòng thủ trực tiếp Sài Gòn. Thực hành bao vây cô lập triệt để Sài Gòn, tạo thế thuận lợi cho tổng tiến công.

Lực lượng thông tin của chiến dịch, các quân đoàn, các binh chủng, các quân khu đã phát huy tối đa các phương tiện trên các hướng bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy, hiệp đồng được thông suốt liên tục giữa các quân đoàn với quân đoàn, giữa quân đoàn với pháo binh, đặc công được nhịp nhàng trong quá trình tiến công từ bên ngoài vào trong.

- Quân đoàn 1: Tiểu đoàn 7 tiếp tục kéo đường dây hữu tuyến điện đến vị trí xuất phát tiến công phục vụ cho Quân đoàn bước vào chiến đấu đánh chiếm Tân Uyên, mở đoạn Bình Mỹ, Bình Cơ trên lộ 16 để triển khai lực lượng đánh chiếm nội đô.

- Quân đoàn 2: Bảo đảm bằng các phương tiện vô tuyến điện, nhất là tiếp sức để tấn công căn cứ thiết giáp Nước Trong, chi khu Đức Thạnh, Long Thành. Đặt trận địa pháo 130 ly ở Nhơn Trạch để bắn vào Tân Sơn Nhất. Ngày 27 tháng 4 giải phóng thị xã Bà Rịa, phát triển đánh chiếm Vũng Tàu.

- Quân đoàn 3: Thông tin chiến dịch phát triển đường dây hữu tuyến điện đến Bời Lời để Quân đoàn 3 thực hành cắt lộ 22, lộ 1, tiêu diệt đồn bốt địch, chia cắt sư đoàn 25 ngụy.

- Quân đoàn 4: Tiến công theo đường số 1, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành chiếm khu Trảng Bom, phát triển về Biên Hòa nhưng bị tuyến phòng thủ của địch ngoan cố phản kích quyết liệt. Chiến sự diễn ra ác liệt. Thông tin Quân đoàn 4 tổ chức bảo đảm thông tin cho 3 mũi tiến công về Hố Nai - Biên Hòa, quân đoàn 3 ngụy, sân bay Biên Hòa, đã mở cánh cửa "thép" cho các quân đoàn đánh vào Sài Gòn.

- Đoàn 232: Trên cơ sở đường dây trần cột gỗ (đã triển khai từ trước đến Lò Gò). Từ đó đặt tiếp sức, kéo tiếp đường dây bọc đến Sở chỉ huy Đoàn 232. Bảo đảm Đoàn 232 chỉ huy Sư đoàn bộ binh 5 cắt đứt lộ 4. Sư đoàn bộ binh 3 đánh chiếm Lộc Giang, Hậu Nghĩa. Hai trung đoàn đặc công 115, 117 đánh chiếm Phú Lâm, mở đường cho Sư đoàn bộ binh 9 đánh vào Sài Gòn.

- Quân khu 8: Cắt hoàn toàn đoạn lộ 4 (từ ngã ba Trung Lương đến giáp Tân An).

- Quân khu 9: Khống chế hẳn đoạn Cán Vẫn - Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng sông Cửu Long bị băm nát.

5. Giai đoạn đánh chiếm 5 mục tiêu bên trong.

Sở chỉ huy chiến dịch hoạt động nhộn nhịp trong đêm 29 tháng 4 năm 1975, những mái đầu bạc xen kẽ mái tóc xanh, cặm cụi trên bản đồ. Phía sau một dãy máy điện thoại dã chiến làm việc không ngừng. Các máy vô tuyến điện truyền vào không trung những tín hiệu, đó là những chỉ thị bổ sung của Bộ, của chỉ huy chiến dịch gửi xuống tất cả các đơn vị trước 0 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

- Cho pháo 130 ly ở Nhơn Trạch thôi bắn vào Tân Sơn Nhất.

- Phổ biến, kiểm tra các ký hiệu, tín hiệu hiệp đồng khi đánh vào nội thành.

- Giao cho Quân đoàn 3 đánh vào Tân Sơn Nhất thì cho một cánh đánh sang Bộ Tổng Tham mưu ngụy phối hợp với Quân đoàn 1.

- Tất cả các binh đoàn thọc sâu, tiến gấp, tiến thẳng đến các mục tiêu quy định.

Thật là giây phút tuyệt vời: "Đây là dàn nhạc hợp xướng đang cất lên không trung bài ca bất tử: "Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng".

Giờ "G" ngày "N" của Chiến dịch Hồ Chí Minh là 00 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, giờ quy định hợp đồng cho tất cả các cánh quân tiêu diệt quân địch còn phòng thủ, chọc thủng vào 5 mục tiêu trọng yếu nhất theo quy định. Đó là giờ quy định cho tất cả tổ biệt động, các đơn vị đặc công từ nơi ém quân đứng dậy đánh địch từ bên trong. Chiếm lĩnh các mục tiêu được giao và bắt liên lạc với các cánh quân từ ngoài vào.

Thông tin từ chiến dịch đến các quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, thông tin các binh chủng đặc công, biệt động, thông tin các tỉnh, thành,v.v... đã tập trung cao độ, sử dụng đồng thời các phương tiện trên từng hướng, để đảm bảo cho trận quyết chiến cuối cùng của lịch sử được thông suốt kịp thời trên từng hướng.

- Hướng Tây Bắc Quân đoàn 3: Tiến công tiêu diệt Đồng Dù, căn cứ sư đoàn 25 ngụy, bắt sống tên tướng Lý Tòng Bá, chiếm giữ Cầu Bông trên đường 1, đánh chiếm Hóc Môn. Thông tin chiến dịch đã bảo đảm hiệp đồng cho Trung đoàn Gia Định và Trung đoàn đặc công 115 giải phóng xã Tân Thới Hiệp và mở cửa phía bắc sân bay chờ Quân đoàn 3 đến đột phá tiến công đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và gặp phái đoàn quân sự ta tại trại Đa-vít.

- Hướng Bắc Quân đoàn 1: Đánh chiếm thị trấn Tân Uyên, tiến công thẳng xuống Lái Thiêu. Toàn bộ sư đoàn 5 ngụy bị bao vây. Thông tin đã đảm bảo hiệp đồng cho cánh quân Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 phối hợp với bộ đội địa phương bao vây toàn bộ sư đoàn 5 ngụy, buộc chúng phải treo cờ trắng đầu hàng. Quân đoàn 1 vượt qua cầu Bình Phước do Trung đoàn đặc công 115 đánh chiếm, để tiến vào mục tiêu chủ yếu là Bộ Tổng Tham mưu ngụy và bộ tư lệnh các binh chủng.

- Hướng Đông Bắc Quân đoàn 4: Sau khi đánh thẳng vào sân bay Biên Hòa, thị xã Biên Hòa, sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy. Sáng 30 tháng 4 năm 1975 đánh vào Sài Gòn, khi đến cầu Ghềnh xe tăng không qua được, phải quay đội hình trở lại xa lộ Biên Hòa, theo sau Quân đoàn 2 đánh vào Sài Gòn chiếm trụ sở Bộ Quốc phòng ngụy, căn cứ hải quân và đài phát thanh.

- Hướng Đông Quân đoàn 2: Thông tin Quân đoàn 2 đã phối hợp tổ chức hiệp đồng cho Quân đoàn tiến quân vào Quận 9. Cánh chủ yếu đánh vào Sài Gòn. Đi đầu là Lữ đoàn xe tăng 203 đến cầu xa lộ Đồng Nai, bộ binh còn ở xa phía sau chưa lên kịp, nhưng lệnh của Quân đoàn phải đánh chiếm nhanh Dinh Độc Lập trong ngày. Lữ đoàn 203 đã hiệp đồng với Trung đoàn 66 có khả năng tác chiến như bộ binh, nắm chắc đường và các khu vực. Trung đoàn 66 để lại một bộ phận giữ cầu, toàn bộ ngồi trên xe tăng Lữ đoàn 203 cùng hiệp đồng chiến đấu. Đoàn xe hùng dũng tiến về Dinh Độc Lập. Khi đến Trường Sĩ quan Thủ Đức, địch dùng pháo bắn thẳng vào đội hình, Lữ đoàn tổ chức thành 2 mũi đánh vào trận địa Liên Thường (xã Tân Nhơn Phú). Khi đến cầu Rạch Chiếc, gần cầu Tân Cảng, nhiều đạn bắn ra từ hai bên đường, lập tức các đơn vị đặc công nhảy xuống chiến đấu bắt sống nhiều địch. Đoàn xe tiếp tục hành tiến, chiếc xe T54 số 843 đi đầu được nữ đồng chí Nga dẫn đường đã húc vào cổng Dinh Độc Lập từ 11 giờ 10 phút. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận dẫn đầu lên cắm cờ trước Dinh Độc Lập đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập sáng 30/4/1975. Ảnh tư liệu.

- Hướng Tây Đoàn 232: Thông tin Đoàn 232 đã tổ chức mạng hiệp đồng từ trước cho Trung đoàn đặc công 429, 117 phối hợp cánh Tây đánh chiếm một số mục tiêu then chốt, mở đường cho bộ phận chủ yếu Sư đoàn bộ binh 9 thọc sâu từ Mỹ Hạnh, Vĩnh Lộc đánh thẳng vào ngã tư Bảy Hiền, tiến chiếm mục tiêu chủ yếu Biệt khu Thủ Đô vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

- Hướng Nam Quân khu 8: Trung đoàn bộ binh 24 phối hợp cùng đặc công đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, đến 10 giờ chiếm bộ tư lệnh cảnh sát. Trung đoàn bộ binh 88 sau khi diệt bốt Đa Phước, bức hàng đồn Ông Thìn, 18 giờ 30 phút chiếm khu vực Nhà Bè.

Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy, quét sạch quân địch và tự giải phóng. Đúng 11 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 toàn bộ lực lượng ngụy ở thị xã Trà Vinh hạ súng đầu hàng; 14 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 toàn tỉnh Gò Công hoàn toàn giải phóng; đêm 30 tháng 4 năm 1975 quân ta làm chủ thành phố Cần Thơ; 5 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975 thị xã Mỹ Tho được giải phóng; 9 giờ ngày 2 tháng 5 năm 1975 tỉnh Long Xuyên được giải phóng. Tại đảo Phú Quốc, lực lượng trong trại giam kết hợp lực lượng địa phương và nhân dân nổi dậy giành chính quyền trên toàn đảo lúc 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

6. Đánh giá kết quả.

Chiến dịch Hồ Chí Minh, chính diện rộng trên 4 hướng, gồm 5 cánh quân, từ ngoài đánh vào bên trong, phải đột phá nhiều mục tiêu phòng thủ. Với quy mô lực lượng lớn nhất, hình thành nhiều cánh quân cấp quân đoàn, hiệp đồng nhiều binh chủng, phối hợp nhiều lực lượng đặc công, biệt động, v.v... đánh từ ngoài vào trong chiếm lĩnh 5 mục tiêu. Trên mặt trận chính, thông tin chiến dịch phải bảo đảm đồng thời phối hợp chặt chẽ với các quân khu, các tỉnh, thành cùng phối hợp hành động.

Thời gian chuẩn bị gấp rút, chiến dịch diễn ra thần tốc, táo bạo. Địch tìm mọi cách phản kích, nhưng thông tin chiến dịch đã bảo đảm cùng một lúc trên các hướng bằng mọi phương tiện sẵn có.

Hữu tuyến điện đã đảm bảo cho 3 hướng (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Đoàn 232). Vô tuyến điện đã bảo đảm cho các hướng, nhất là tiếp sức bảo đảm cho 5 hướng. Vì vậy, từ ngày N đến giờ G nổ súng thông tin đã bảo đảm cho chỉ huy chặt chẽ tới 5 quân đoàn. Bảo đảm hiệp đồng giữa Quân đoàn 2 với Quân đoàn 4 hướng Đông, giữa Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3 hướng Tây Bắc và Bắc. Trên đường tiến công đánh chiếm các mục tiêu, từng hướng đã hiệp đồng liên lạc chặt chẽ với các lực lượng đặc công, biệt động..., đánh chiếm các đầu cầu, tạo điều kiện cho các quân đoàn tiến công vào bên trong.

Thông tin chiến dịch, các quân đoàn, binh chủng, quân khu, tỉnh, thành đã tập trung cao độ, mưu trí sáng tạo, dũng cảm bảo đảm thông tin liên lạc được thông suốt, kịp thời trong quá trình chiến dịch.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta sử dụng 13 tiểu đoàn thông tin, phối hợp giữa lực lượng của Bộ Tư lệnh Thông tin với Thông tin B2, với lực lượng thông tin các quân đoàn mới chuyển vào tham gia chiến dịch. Thông tin trên dưới đã đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ. Sức mạnh hiệp đồng từ trên xuống là yếu tố quan trọng, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, vững chắc trong quá trình chiến đấu.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

0 comments:

Đăng nhận xét