Đại tá Nguyễn Ngọc Châu
Bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, rút toàn bộ quân đội của
Mỹ và các nước chư hầu ra khỏi Việt Nam...
Do thấu hiểu bản chất và âm mưu của địch nên chúng ta
không quá kỳ vọng vào thiện chí của chúng. Một mặt ta kiên quyết đấu tranh, buộc
địch phải thi hành đúng những điều khoản của Hiệp định Pa-ri. Mặt khác ta tranh
thủ thời kỳ hoà bình tạm thời, khẩn trương chuẩn bị phát triển lớn, tạo ra những
đột biến lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Cùng với toàn quân, toàn dân đi tới trận chiến đấu cuối
cùng, bộ đội thông tin bắt đầu thực hiện kế hoạch tăng cường lực lượng thông
tin ở cả 3 cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Hệ thống thông tin hữu
tuyến điện đường trục Bắc - Nam phát triển tới Đắc Đam (1.284km). Lực lượng chủ
yếu là Trung đoàn 132 và 136, kết hợp với Trung đoàn 596, 49 của Đoàn 559 và
thông tin B3. Các đơn vị thông tin hỗn hợp của binh chủng cũng đã vào Tây Nguyên.
Tuy có nhiều biện pháp về tổ chức và kỹ thuật, nhưng do cự ly quá xa, thi công
theo hình thức dã chiến có nhiều nhược điểm về kỹ thuật. Vì vậy chất lượng tín
hiệu rất kém (mặc dù đã qua nhiều trạm tiếp chuyển tải ba). Liên lạc bằng hữu
tuyến điện từ B3 ra Hà Nội hết sức khó khăn, lúc thông, lúc tịt. Đường dây liên
lạc bị đứt quãng... Từ thực tế, yêu cầu, một giải pháp tối ưu là sử dụng tuyến
vô tuyến điện tiếp sức từ Hà Nội vào Tây Nguyên làm đường trục thứ hai, kết hợp
với vô tuyến điện sóng cực ngắn làm đường công vụ trong phạm vi hẹp, cự ly gần.
Ngày 21 tháng 1 năm 1975, Đại đội 13 và 15 vô tuyến điện
tiếp sức, do chính trị viên tiểu đoàn Phan Ngọc Đôn và tiểu đoàn phó Nguyễn Văn
Cử chỉ huy đã vào tới khu vực Sở chỉ huy chiến dịch.
Đại đội 13 do đồng chí Lưu Đức Doanh - đại đội trưởng,
vốn là một chiến sĩ báo thoại và là một cán bộ trung cấp kỹ thuật vô tuyến điện,
nên rất tường tận về kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn. Vì vậy rất năng động,
sáng tạo, xử lý các sự cố và tình huống phát sinh trong thông tin trên các hướng
liên lạc. Hiệp đồng tốt với các phương tiện thông tin khác trong Sở chỉ huy chiến
dịch.
Được giao nhiệm vụ, đồng chí Doanh chỉ huy đơn vị triển
khai đường liên lạc từ Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu đến Sở chỉ huy
chiến dịch và đến Sở chỉ huy Sư đoàn 320. Do trình độ kỹ thuật sử dụng máy rất thành
thạo, điều khiển giỏi, với trí thông minh linh hoạt, đồng chí Doanh đã xoay
ăngten bắt liên lạc được với trạm của đồng chí Oanh ở X27 (Chư Pông) rồi tìm
cách nối thông với các trạm trên đường trục tiếp sức về đến JK1 (Hà Nội).
Ngày 28 tháng 2 năm 1975 hệ thống thông tin liên lạc tiếp
sức đã thông suốt và sẵn sàng chờ lệnh.
Ngày 8 tháng 3 năm 1975, đồng chí Chính ủy Lê Cư ở Hà
Nội mời đồng chí Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói chuyện với đồng
chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng ở Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu
ở Tây Đắc Đam (ZA75) lúc 20 giờ. Trước đó toàn bộ 14 trạm trên tuyến trục hữu
tuyến điện đã phải điều chỉnh hàng giờ mới thông nhưng chỉ nói được vài phút lại
gián đoạn do thú rừng (voi, hươu, nai) đi ăn làm đứt dây hoặc do bộ đội ta nấu
ăn không đổ nước tắt bếp nên lửa đã cháy lan ra rừng làm đứt dây, cho nên cuộc
nói chuyện đã không đạt được như mong muốn.
Quá trình chuẩn bị chiến dịch nhiều anh em phải đi sửa
dây bất chấp ngày đêm, mặt mũi cháy xém, ngủ rừng bị muỗi đốt đêm nên bị ốm, bị
sốt rét, mắt thâm quầng nhưng vẫn nêu cao trách nhiệm hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Bạn Đào Xuân Mai đã viết:
"Chung
nhau cơn sốt rét rừng,
Một
viên thuốc đắng đã từng sẻ san
Gập ghềnh
đèo dốc non ngàn
Vai gầy
chung gánh gian nan thủa nào"...
Đúng 5 giờ ngày 9 tháng 3 năm 1975 ta nổ súng đánh chiếm
căn cứ Đức Lập, trong ngày Sư đoàn bộ binh 10 đã chiếm hoàn toàn cứ điểm.
2 giờ ngày 10 tháng 3 năm 1975 lệnh tấn công vào Buôn
Ma Thuột, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc đều thông suốt từ Sở chỉ huy chiến
dịch đến các sư đoàn bộ binh 316, 320, 10 và các trung đoàn bộ binh 25, 95B, Trung
đoàn 271, các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ, đặc công, xe tăng, công binh và Sư
đoàn 968 ở Plây Ku - Kon Tum. Đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc tiếp sức
thông suốt, chất lượng tốt nên tôi đã lệnh cho đồng chí Doanh đảm bảo liên tục
24/24 giờ. Quá trình diễn biến chiến dịch, chất lượng thông tin tiếp sức rất ổn
định nên đồng chí Lê Ngọc Hiền đã hỏi tôi: "Sao càng ngày thông tin càng tốt
thế?". Nhờ có thông tin tốt mà đồng chí Nguyễn Tuyến – Bí thư của đồng chí
Văn Tiến Dũng đã ghi âm được nhiều cuộn băng trong chiến dịch này.
Ngày 12 tháng 3 năm 1975 trinh sát ta phát hiện địch lên
ô tô mang theo ba lô và súng đạn ở Kon Tum và Plây Ku cho xe di chuyển về Cheo
Reo (Phú Bổn) đã báo cáo kịp thời với đồng chí Văn Tiến Dũng. Đồng chí Văn Tiến
Dũng nhận định: "Do mất Buôn Ma Thuột nên địch có thể bỏ Kon Tum và Plây
Ku về giữ vùng đồng bằng Nha Trang - Cam Ranh". Vì vậy, đồng chí lệnh cho
Sở chỉ huy di chuyển và lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng cơ động lực lượng lên
chặn địch ở đông Cheo Reo. Trạm tiếp sức ZA75 đã kịp thời bắt liên lạc với trạm
tiếp sức của Sư đoàn 320, kịp thời chuyển lệnh cho Phân đội 9 cấp tốc hành quân
lên chặn địch ở đông Cheo Reo. Sư đoàn 320 được tăng cường Trung đoàn bộ binh
95B và một tiểu đoàn xe tăng được sự chi viện của cụm pháo binh 675 để tiêu diệt
địch co cụm ở thung lũng Cheo Reo.
Lúc 18 giờ ngày 15 tháng 3 năm 1975 đồng chí Văn Tiến
Dũng đã đến sở chỉ huy mới (Tây đường 14). Chỉ sau ít phút nghỉ ngơi đồng chí
đã trực tiếp nói chuyện với Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp về tình hình
diễn biến chiến dịch và cuối cùng đồng chí nói: "Nhiệm vụ 2 năm tới xin
phép Bộ Chính trị cho tôi thực hiện luôn".
Sư đoàn 320 đã nhanh chóng hình thành thế bao vây và đồng
loạt tiến công. Đến ngày 24 tháng 3 năm 1975, toàn bộ lực lượng Quân khu 2 ngụy
rút chạy về Cheo Reo đã bị tiêu diệt và bắt sống.
Sau khi Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng, các sư đoàn
bộ binh 10, 320 tiếp tục phát triển tiến công về đồng bằng phối hợp với các đơn
vị bạn đánh chiếm Tuy Hoà, Phú Yên, Nha Trang...
Đến ngày 3 tháng 4 năm 1975 chiến dịch Tây Nguyên kết
thúc thắng lợi. Đồng chí Văn Tiến Dũng lệnh di chuyển Sở chỉ huy vào R (Lộc
Ninh) căn cứ của Bộ Tư lệnh B2, đồng chí yêu cầu: "Tôi đi đến đâu phải bảo
đảm thông tin liên lạc kịp thời với Bộ Tổng Tham mưu và các quân khu, quân đoàn
vì lúc này là "Khẩn trương, thần tốc".
Cơ quan thông tin chiến dịch chuẩn bị 3 xe vô tuyến điện
50W và 15W, 2 xe vô tuyến điện tiếp sức do đồng chí Hoàng Niệm - Phó Tư lệnh Thông
tin phụ trách đi với đoàn.
Nhờ có trạm giữa thông tin tiếp sức trên đỉnh núi Bu
Prăng đã được triển khai trước (cao 1.000m) nên khi đồng chí Văn Tiến Dũng nói
chuyện rất kịp thời thông suốt. Sau này đồng chí Dũng dừng chân ở đâu đều có thể
liên lạc (qua 7 trạm tiếp sức đường trục) về Bộ Tổng tư lệnh ở Hà Nội và các
quân khu, quân đoàn đang hành quân thần tốc vào chiến trường.
Sau này tổng kết đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã nhận
xét: "Tôi đi đến đâu tôi đều liên lạc được với Bộ Tổng Tham mưu và các chiến
trường rất tốt".
Ngày 5 tháng 4 năm 1975 các đơn vị thông tin của Binh chủng
đã tập kết tại căn cứ Bộ Tư lệnh B2 phối hợp cùng lực lượng thông tin B2 để bảo
đảm cho Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh chỉ đạo các quân đoàn, sư đoàn tham gia
chiến dịch.
Toàn bộ lực lượng thông tin vô tuyến điện tiếp sức tham
gia chiến dịch là 69 xe - lớn nhất trong mọi chiến dịch. Để chỉ huy kịp thời
Quân đoàn 4 đánh ngăn chặn địch ở Xuân Lộc, 1 xe tiếp sức do đồng chí Nguyễn
Văn Thành phụ trách được phái sang Xuân Lộc phải vượt qua đường 13 do địch còn
kiểm soát. Khi xe tới Mường Le (sông Bé) thì xuất hiện 20 máy bay HU-1A của địch
quần đảo bắn phá. Nhờ có đồng chí Trần Văn Hải là cán bộ của cơ quan thông tin
B2 dẫn đường, trạm đồng chí Thành đã đến Sở chỉ huy Quân đoàn 4 an toàn. Trạm
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được thưởng Huân chương Chiến công Giải
phóng hạng Ba.
Ngày 18 tháng 4 năm 1975, cơ quan thông tin chiến dịch
đã hoàn thành kế hoạch tổ chức và bảo đảm thông tin liên lạc cho chiến dịch.
Ngày 23, 24 tháng 4 năm 1975, Bộ đội Thông tin đã hành
quân vào Sở chỉ huy chiến dịch để triển khai nhiệm vụ theo kế hoạch.
Đặc biệt, trạm chuyển tiếp ở núi Ông (cao 280m) phải triển
khai 10 xe thông tin tiếp sức nhưng không có đường cho ô tô lên, nên anh em vừa
phải làm đường cho xe lên vừa phải triển khai nhiệm vụ phục vụ chiến đấu. Riêng
trạm tiếp sức đặt trên núi Bà Đen (cao 900m) lúc này địch còn đang kiểm soát
nên anh em đã bí mật triển khai thông tin kịp thời, đó là một kỳ công.
Đúng 12 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, toàn bộ hệ thống
thông tin chiến dịch ở Sở chỉ huy Cam Xe đã liên lạc thông suốt theo kế hoạch.
Dự kiến lúc đầu của Bộ Tổng tư lệnh là Chiến dịch Hồ
Chí Minh sẽ bắt đầu nổ súng vào ngày 28 tháng 4 năm 1975.
Tình hình quân ngụy có nguy cơ thất bại nên tổng thống
Mỹ ra lệnh cho bọn cố vấn Mỹ và quân đội Mỹ còn lại di tản khỏi Sài Gòn. Trước
tình thế đó, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức và giao quyền cho Trần
Văn Hương. Hương lên thay Thiệu nhưng thấy tình hình không thể cứu vãn nổi nên
Hương lại giao tiếp cho Dương Văn Minh.
Dương Văn Minh nhậm chức và lên tiếng đề nghị "Việt
Cộng ngừng bắn để thương lượng".
Ngày 26 tháng 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận được chỉ thị
của Bộ Chính trị: Lệnh tấn công ngay vào Sài Gòn bắt Dương Văn Minh đầu hàng vô
điều kiện.
Trước tình huống bất ngờ đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết
định vào Sở chỉ huy chiến dịch ở Cam Xe trước 2 ngày tức là ngày 26 tháng 4 năm
1975.
Do cơ quan thông tin chiến dịch đã sớm chuẩn bị kế hoạch
và triển khai toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc thông suốt trước 2 ngày nên
đã đáp ứng kịp thời lệnh vào sớm Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Đúng 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, Bộ chỉ huy chiến
dịch đã lệnh cho tất cả các mặt trận nổ súng tấn công theo kế hoạch vào Sài
Gòn.
Ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân của ta
thực hiện đánh tiêu diệt, đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài đúng kế hoạch
(sáng 27 cụm pháo binh chiến dịch ở Nhơn Trạch bắn hơn 300 quả đại bác xuống
sân bay Tân Sơn Nhất, làm rung chuyển đường phố Sài Gòn).
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, thông tin bảo đảm tốt cho Sở
chỉ huy tiền phương Quân chủng Phòng không - Không quân dẫn đường cho một biên
đội 5 máy bay A37 do Nguyễn Thành Trung phụ trách, cất cánh từ sân bay Thành
Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom xuống khu vực máy bay địch ở sân bay Tân Sơn Nhất
và trở về an toàn.
Đúng 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Bộ chỉ huy chiến
dịch yêu cầu Quân đoàn 3 báo cáo tình hình, lúc này chỉ có một phương tiện
thông tin duy nhất là xe tiếp sức cơ động theo Sở chỉ huy của Quân đoàn. Đồng
chí Cao Minh Tám - trạm trưởng đã mời đồng chí Nguyễn Quốc Thước - Tham mưu trưởng
quân đoàn lên xe tiếp sức báo cáo tình hình về Sở chỉ huy chiến dịch là: đã chiếm
sân bay Tân Sơn Nhất. Tư lệnh chiến dịch đã hạ lệnh cho Quân đoàn 3 nhanh chóng
cho một mũi cả bộ binh lẫn xe tăng vòng phía Nam phối hợp và hỗ trợ cho Quân
đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy.
Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai xe
tăng 843 và 390 dẫn đầu lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 húc đổ cổng
Dinh Độc Lập cùng lực lượng bộ binh Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe
tăng 203 tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các của Dương Văn Minh phải đầu
hàng.
Ngay sau khi quân ta chiếm được Dinh Độc Lập, Trạm tiếp
sức của đồng chí Trần Xuân Thủy đi cùng đội hình của lữ đoàn xe tăng, đã tháo
máy đặt lên nóc Dinh Độc Lập và bắt liên lạc với Trạm ZA75 ở Sở chỉ huy chiến dịch.
Đồng chí Thủy đã mời đồng chí Bùi Quang Thận đến báo cáo với đồng chí Văn Tiến Dũng về tình hình chiếm Dinh Độc Lập và bắt nội các Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện.
12 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đồng chí Văn Tiến Dũng lệnh cho thông tin vào Sài Gòn chuẩn bị Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu. Đoàn chúng tôi hành quân cấp tốc cơ động vào Sài Gòn. Đúng 20 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 Tổng trạm thông tin Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ở Sài Gòn đã triển khai và liên lạc thông suốt.
11 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975 đồng chí Văn Tiến Dũng
cùng cơ quan chiến dịch đã vào tới Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ở
Sài Gòn để chỉ huy các lực lượng của ta giải phóng các khu vực còn lại ở đồng bằng
Nam Bộ. Thông tin được lệnh triển khai để bắt liên lạc bằng khí tài tiếp sức của
Tiểu đoàn 4 với các nơi:
- Trung ương Cục ở Thủ Đức.
- Ủy ban quân quản ở tòa nhà thượng nghị viện.
- Bộ Tư lệnh Hải quân ở cảng Bạch Đằng.
- Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ở Long Bình.
- Cục 2 ở tổng nha cảnh sát.
Đường trục tiếp sức từ Sài Gòn ra Hà Nội được giữ vững
liên lạc 24/24.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng
chí Nguyễn Tuyến - bí thư của đồng chí Văn Tiến Dũng đã ghi âm được 40 cuộn
băng cát sét qua 55 ngày đêm chiến dịch. Đó là tài liệu vô giá để lưu giữ cho Bộ
Quốc phòng làm tư liệu tổng kết chiến tranh sau này. Trong tổng kết chiến dịch,
đồng chí Văn Tiến Dũng đã nhận xét: "Trong điều kiện rất khó khăn phải tổ
chức và đảm bảo thông tin liên lạc cho tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy
mô lớn nhất từ trước đến nay, cơ động cao nhưng thông tin liên lạc đã rất cố gắng
và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch".
Kết thúc chiến dịch có 6 đơn vị và 9 cán bộ, chiến sĩ được
thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng các loại, 189 đồng chí được tặng Bằng
khen.
Ngày 8 tháng 9 năm 1975, Tiểu đoàn 4 tiếp sức được Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân. Đây là một trong số những đơn vị được tuyên dương đầu tiên sau khi kết
thúc chiến tranh, đó cũng là niềm vinh dự và tự hào của cả Binh chủng Thông tin
liên lạc.
Thời gian đã trôi qua 32 năm, là một cán bộ đã theo dõi
bộ đội tiếp sức từ những năm 1960 cho đến năm 1993 khi nghỉ hưu, đã gắn bó với
anh em gần suốt cuộc đời mình. Mỗi lần kỷ niệm ngày truyền thống của đơn vị là ngày
vui gặp gỡ, cùng nhau nhớ lại những năm tháng hào hùng đã qua.
Chúng ta vui mừng phấn khởi thấy Đại đội 22 ngày đầu
đã phát triển thành Tiểu đoàn 4, rồi thành Trung đoàn 138 và Lữ đoàn 614. Các
thế hệ tiếp sau mãi mãi tự hào về Tiểu đoàn 4 thông tin tiếp sức anh hùng,
chúng ta hãy giữ gìn và phát huy truyền thống Anh hùng đó.
Ngày 19-5-1997
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét