30.11.24

Nhớ mãi về những năm tháng ấy

Đại tá Huỳnh Xuân Mai - nguyên Phó giám đốc TTTT KHKTQS Bộ Tổng tham mưu

Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tháng 7 năm 1954, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, đất nước Việt Nam tạm chia thành hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời. Sau hai năm sẽ hiệp thương, tuyển cử thống nhất đất nước...

Nhưng ngay từ ngày đầu, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ bán nước đã ra sức phá hoại hiệp định, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Từ cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng ta, Bác Hồ, hiểu rất rõ âm mưu thâm độc, xảo quyệt của kẻ thù, nên đã sớm xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam sau năm 1954, là xây dựng miền Bắc vững mạnh toàn diện - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Nam tiền tuyến lớn của cả nước.

Để chuẩn bị lực lượng, thực hiện hai nhiệm vụ trên, Bác Hồ và Đảng ta đã chỉ đạo, chọn đưa lực lượng bộ đội, một số cán bộ, con em các gia đình có công với cách mạng tập kết ra Bắc để công tác, nuôi dưỡng, học tập, đào tạo... coi đây là hạt giống đỏ, nguồn vốn quý vô giá của cách mạng, có khả năng phục vụ lâu dài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Theo tôi, nhận thức sâu sắc rằng việc thành lập các trường học sinh miền Nam với mục đích đã nêu trên và trường văn hóa quân đội ta, nhằm nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự cho cán bộ chỉ huy, lãnh đạo quân đội trong giai đoạn cách mạng mới là một chủ trương chiến lược của Bác Hồ.

Người có tầm nhìn xa, trông rộng, hiểu rõ các bước phát triển sắp đến, dự đoán những khó khăn phức tạp của mạng Việt Nam sau này.

Sau khi tập kết ra Bắc, tôi và một số cán bộ, bộ đội miền Nam được tuyển chọn, chuyển từ Thanh Hóa ra Hà Nội rồi đến học tập bổ túc văn hóa tại Trường văn hóa quân đội Kiến An - Hải Phòng. Đầu tháng 8 năm 1956, đoàn học viên quân đội gồm 80 cán bộ, được Bộ Quốc phòng cử sang Liên Xô học tập tại nhiều học viện quân sự khác nhau, do đồng chí Đàm Quang Trung làm trưởng đoàn, đồng chí Lê Tự đồng làm phó đoàn, phụ trách chính trị. Đến Mạc Tư Khoa, đoàn tách ra nhiều đoàn nhỏ mang tính chuyên ngành, phải di chuyển về nơi mình sẽ học tập.

Riêng đoàn cán bộ thông tin, 11 người có các anh: Phạm Niên, Phan Hoan, Đào Phố, Kiều Kim Sơn, Nguyễn Chỉnh, Phạm Hiệu, Hoàng Phụng Ngọc, Huỳnh Xuân Mai, Lê Trung Kiên và Đinh Văn Định do anh Hoàng Niệm làm trưởng đoàn, đáp chuyến tàu lửa cao tốc về học viện Hàn Lâm Thông tin liên lạc ở thành phố Lê-nin-grát.

Tại đây, chúng tôi được đón tiếp rất chân tình, niềm nở như người nhà và được bố trí tại một ký túc xá rộng lớn, sẽ học tập cùng với nhiều đoàn sĩ quan các nước bạn như: An-ba-ni, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni, Trung Quốc, Mông Cổ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên...

Vào những ngày tháng năm đầu, chúng tôi học tập rất vất vả, nhất là phải nghe, nói, viết, đọc hoàn toàn bằng tiếng Nga, không có phiên dịch và từ điển tra cứu. Nhưng nhờ phương pháp giảng dạy đặc biệt với kinh nghiệm tích lũy nhiều năm của các thầy cô giáo Nga, cho đến hết năm dự bị đại học, chúng tôi mới có thể tiếp thu tương đối hoàn chỉnh.

Đây là những công lao đầu tiên của thầy cô giáo Nga, vì không có các thầy cô truyền thụ cho chúng tôi môn ngoại ngữ - Nga văn là những kiến thức văn hóa cơ bản ban đầu thì làm sao chúng tôi có thể học lên cao được.

Chúng tôi vô cùng mang ơn các thầy cô về công lao đầy tình nghĩa ấy, đặc biệt là thầy đại tá Mar-cốp, có khuôn mặt hiền từ, đôi mắt to và sáng, phụ trách hướng dẫn chúng tôi học tập điều lệnh, lên kế hoạch cho chúng tôi đi tham quan những danh lam thắng cảnh như bảo tàng, cung điện mùa đông, mùa hè, xem ca nhạc tại các nhà hát lón, v.v...

Ở đây chúng tôi tận mắt thấy được những công trình kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật tuyệt vời vô giá của nhân loại... Không sao quên được công ơn của cô giáo Nga Va-lư-scô-ca, Trút-xa-nô-va và nhất là bà mẹ Va-xi-lev-ka-ia, chuyên dạy môn hóa - Bà lên lớp không dùng giáo án, bài giảng ngắn gọn, dễ hiểu, kết quả học tập cao. Bà phúc hậu nhân từ, chồng hy sinh trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

Chúng tôi đến thăm căn phòng của bà, tưởng một biệt thự to lớn, nhưng không, nó đơn sơ, giản dị như phong cách của bà. Chúng tôi gọi bà là Mẹ, vì bà hết lòng chăm lo học hành, sức khỏe không những đối với học sinh quân sự chúng tôi mà cho cả các em sinh viên học tập ở các trường đại học trong thành phố. Ai ốm đau, có khó khăn là bà đến thăm, mang quà tặng, động viên để bệnh tình chóng hồi phục.

 Chúng tôi thật sự bị choáng ngợp, xúc động, bởi hàng trăm sản phẩm thắng cảnh Việt Nam treo quanh tường nhà bà như Hồ Tây, Hồ Gươm, chùa Một Cột, các bức tranh sơn mài khắc họa những nét tinh tuý nhất của tâm hồn Việt Nam.

Đã gần hai năm xa Tổ quốc, nhớ quê hương da diết, thì chúng tôi nhận được thông báo sẽ có đoàn cán bộ cấp cao Chính phủ ta đến thăm các trường quân sự, không chỉ riêng lưu học sinh chúng tôi náo nức vui mừng mà các bạn sĩ quan Liên Xô cũng vậy, rạo rực chờ đợi. Chúng tôi cứ đoán già đoán non đoàn đại biểu do ai dẫn đầu? Phần đông phỏng đoán chắc đoàn của Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng đến thăm.

Một buổi sáng hôm ấy đúng vào ngày 16 tháng 8 năm

1957, chúng tôi tập trung tại bán đảo Pê-trô-pap-lov-ka-ia xinh đẹp đầy thơ mộng, hồi hộp chờ đợi. Bỗng thấy một đoàn xe từ từ tiến vào cổng, chiếc xe đi đầu dừng lại, thật bất ngờ thấy Bác Hồ tự mở cửa xe bước xuống và nhanh chân, tươi cười đến chỗ chúng tôi.

Có ai đó nhận ra, kêu to: Bác Hồ! Bác Hồ! Tiếng vỗ tay vang lên nhiều lần, theo sau Bác là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế.

Chúng tôi reo lên và đến vây lấy Bác. Bác ra hiệu cho chúng tôi trật tự và đưa mắt trìu mến nhìn chúng tôi thật xúc động! Lúc này các cô giáo Nga cũng đã đến. Mọi người tặng hoa, chúc sức khoẻ Bác, Bác tươi cười cảm ơn bằng tiếng Nga.

Bác hỏi bà Ta-ma-ra-phê-đô-rov-na dạy Nga văn về việc học tập tiếng Nga của chúng tôi và cảm ơn các thầy cô đã dạy dỗ học sinh Việt Nam. Chúng tôi vô cùng xúc động và có cảm tưởng như Bác là người cha đến thăm con cháu ở nơi xa! Bác bận trăm công, ngàn việc, Bác vẫn quan tâm đến việc học hành của chúng tôi, Bác quay lại nói chuyện với chúng tôi.

Thật bất ngờ Bác hỏi cháu nào là người miền Nam ở đây? Tất cả lặng đi vì xúc động. Ở cách xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà Bác vẫn nhớ đến miền Nam! Người luôn luôn dành cho miền Nam tình cảm đặc biệt. Mấy anh bạn giục tôi thưa với Bác đi, thân hình tôi quá thấp, ít tuổi nhất, lại đứng sau cùng, chỉ thấy được tay Bác giơ lên vẫy gọi. Tôi lách người theo anh bảo vệ mở lối chạy lên:

- Thưa Bác, cháu là người miền Nam ạ!

- Cháu lên đây với Bác.

Tôi ngập ngừng, Bác nói:

- Cháu lên đây ngồi gần vào Bác nào?

Tôi đến bên Bác, Bác choàng tay, ôm lấy tôi, xoa đầu tôi, nhìn tôi mỉm cười, tôi ngồi bên cạnh Bác, cảm thấy sướng vui không sao kể xiết. Tất cả im lặng, chờ đợi. Bác hỏi các cháu khỏe không? Có chịu đựng được cái rét dưới âm độ không? Công tác, học tập có tốt không? Mọi người không ai bảo ai, đồng loạt trả lời, thưa Bác có ạ!

Riêng tôi, Bác dặn:

- Là người miền Nam, cháu phải học thật giỏi để xứng đáng với quê hương ruột thịt.

Tôi xúc động, không nói nên lời!

Bác nói chuyện với tất cả học viên:

Nhân dịp Bác và chú Phạm Ngọc Thạch sang thăm Liên Xô, Bác ghé thăm các cháu, biết các cháu học tập tốt, Bác rất mừng. Bằng giọng ấm áp trìu mến, Bác nói ngắn gọn về tình hình trong nước, về công cuộc xây dựng miền Bắc và giọng Bác nghẹn ngào, khi nói đến miền Nam, về sự tàn bạo của Mỹ - Diệm. Chúng khủng bố, đàn áp, bắn giết, bỏ tù những người kháng chiến cũ, những người đấu tranh anh dũng, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi hiệp thương...

Bác dặn: Các cháu phải biết nén đau thương, biến nó thành sức mạnh, hãy cố gắng công tác, học tập thật giỏi, chấp hành tốt các quy định, nội quy của Nhà nước và luật pháp của nước bạn. Sau này học xong, các cháu trở về nước góp phần xây dựng tiềm lực kinh tế, quốc phòng ở miền Bắc và vào miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương - đồng bào miền Nam ruột thịt. Chúng tôi lắng nghe như nuốt từng lời Bác dạy. Khi Bác ra về, chúng tôi vẫn đứng lặng tại chỗ như vừa trải qua một giấc mơ tuyệt vời, hạnh phúc, vinh dự biết bao.

Bà giáo Nga văn nói với chúng tôi:

- Trong đời tôi, hôm nay là ngày đẹp nhất, vinh dự nhất, Bác Hồ vĩ đại mà sao giản dị đến thế!

Sau ngày Bác đến thăm, toàn học viện dấy lên một tinh thần học tập sôi nổi, nhiều người đạt loại giỏi.

Tốt nghiệp, chúng tôi về Tổ quốc và lần lượt vào Nam chiến đấu đến trận đánh cuối cùng, mang tên chiến dịch Buôn Ma Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Tây Nguyên, giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đây là niềm vinh dự, tự hào, vì chúng tôi đã thực hiện đúng lời Bác Hồ dặn.

Đã gần 50 năm rồi, nhưng lần được gặp Bác mãi mãi ghi nhớ trong trái tim tôi.

Nhìn lại những năm chiến đấu chống Pháp rồi chống Mỹ, cứu nước ở chiến trường miền Nam giải phóng quê hương thống nhất Tổ quốc, đến ngày nghỉ hưu, tham gia công tác xã hội, xây dựng địa phương, trên cương vị nào, bất cứ ở đâu, thì kỷ niệm sâu sắc lần gặp Bác mùa thu năm ấy, luôn là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao để xứng đáng hơn nữa là con cháu Bác Hồ muốn vàn kính yêu nói chung và người lính thông tin nói riêng.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin”)

0 comments:

Đăng nhận xét