29/8/17

Tự truyện " Nẻo đường " Kỳ 14



H19 tiếp tục làm nhiệm vụ huấn luyện ( Tiếp theo )
Đầu tháng 9 năm 1972, bỏ căn cứ C35, trung đội tôi “vón cục” lại đại đội, trong đó giáo viên lên đến chín người.
Suốt từ trung tuần tháng chín đến hạ tuần tháng mười, khung nuôi nhau. Bữa nào cũng như ăn cỗ. Chiêu sinh khóa 4 chưa có học viên về, chúng tôi chỉ ăn rồi chơi. Xe đạp sẵn, không chỉ đi gần trong phạm vi H19 còn đi các nơi xa.
Hôm tôi và Sự nuôi quân đi Sa Đao chơi. Đi lạc đến ba bốn giờ chiều, đói tạt vào nhà dân ở dọc đường xin ăn. Họ cho mỗi người cái bánh tét to, ăn xong họ lại lấy quả đu đủ to bằng ấm tích loại lớn bổ ra cho hai thằng ăn. Ở Campuchia có hai loại đu đủ. Loại chín đỏ tươi như màu cờ, loại này trông thì đẹp, ăn nhạt. Loại vàng như đu đủ ở mình ăn ngon.
Thế nào lại gặp tốp Minh, Sáng ở Quân khu 40 đi tải gạo bằng xe đạp.
- Ô, Bủ Hay, sao gặp ở đây!
- Hết khóa, xả hơi đi Sa Đao chơi.
- Tụi này đóng tại đấy đấy!
Thế là Minh vỗ vào bao tải buộc trên gác-ba-ga xe đạp và nói: “Tối nay tìm đến chỗ bọn tôi ăn quýt. Tìm được thì ăn, không tìm được thì nhịn”. Tôi và Sự đi bộ năm giờ chiều đến nơi. Gạo, hai thằng vãi suốt dọc đường cứ theo mà đi sẽ đến, sao lạc được.
Họ chuẩn bị tiệc tùng, cơm no rượu say vào tám giờ tối. Trong lúc uống rượu, tôi có hỏi:
- Đợt tháng 7, tháng 8, chiều hôm ấy chúng tôi đang thực hành sửa chữa máy. Thấy “hai cánh bằng” quần. Tôi ra lệnh: Xách đồng hồ chạy xuống hầm. Sau thấy chúng thả bom ở Sa Đao các ông không “dính” à?
- Ồ, không. Hôm ấy nó đánh vào rừng chuối. Trúng hầm của Tướng Đồng Văn Cống. Tối đó đài địch đưa tin ngay. Nhưng thủ trưởng đã chuyển cách đó hai ngày rồi.
Tầm chín giờ tối chúng tôi chia tay Xưởng thông tin Quân khu 40, đến nhà người quen mà cuối 1970 làm chuối khô để ở nhờ. Thấy chúng tôi đến chơi, dân phố mừng rỡ, hô hét nhau cơm nước cho hai chú. Tôi từ chối, lý do là ăn ở chỗ anh em gần đây.
Về đơn vị được mấy hôm lại đi Sa Đao. Khiêng Nghĩa tiếp phẩm đi viện. Nghĩa làm tiếp phẩm suốt từ đầu năm 1969 đến nay, gần bốn năm, quê Hải Dương, bị bệnh “đái huyết sắc tố”, nó có giống bệnh tiểu đường ngày nay không, tôi dốt nghề y nên không rõ. Người gầy dóc, giờ vãn công việc mới đi nằm viện. Anh Nguyễn Phúc Yên, phó đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Anh cử sáu người chia làm ba ca cáng đi.
Chuẩn bị lình sình mãi chín mười giờ mới xuất phát được, tầm quá trưa gần đến Sa Đao, đói quá, tôi tạt xuống ria suối có buồng chuối rừng chín lấy ăn. Lúc thường, ăn chát xít, lúc này ngon ngon đáo để. Qua sóc Sa Đao còn hai giờ đồng hồ nữa mới tới viện. Đó là viện lớn của Quân khu 40. Nằm gần khu vực Tăng Cà Xăng, thuộc đất Công Pông Thom. Làm thủ tục nhập viện xong, bảy người thế “mã hồi” đến Sa Đao là năm giờ chiều. Anh Yên hạ lệnh ngủ ở đây, khu vực phía Tây thị trấn. Cách sóc vài trăm mét. Anh em mỗi người một việc: anh nấu cơm, anh mua thực phẩm, tôi nhận luôn cái việc “phóng khoáng” nhất là kiếm rau. Thích đi là để ngắm người, ngắm trời, ngắm đất, ngắm cỏ cây hoa lá. Đến rìa sóc, thấy bãi mướp nhiều quá, cuối vụ quả nó đặc, ăn thơm ngon. Ổi nữa, quả ổi to như nắm tay, đủ loại chín mòng, ương, xanh có cả. Tôi lấy những quả mướp vẫn còn hoa. Xong đánh một bụng ổi. Ôi chao ôi! Ăn xong cứ bóp bụng, ngồi há miệng cho nước dãi trong miệng chảy ra. Bụng co thắt, nôn mửa hết chỗ ổi mới khỏi, sau mới mang mướp về. Bữa cơm dã ngoại ấy, đơn sơ mà ngon. Chỉ có xoong cá tra nấu canh chua, cân thịt nạc xào với đu đủ xanh, con gà thịt chặt rang đằm đặm và xoong mướp bao tử xào. Mâm cơm dã ngoại dọn ra, bảy người ngồi quây quần nhìn nhau, ý trách Thịnh “tư tỏi” đi mua thực phẩm mà không làm một “toong”.
Cậu ta cứ xới xới cái xoong cơm mà chưa xới ra bát nào. Tự nhiên vào trong nhà xách ra một “toong”:
- Bẩm các “đại ca”, có xài thứ này không ạ?
Các đại ca sáng mắt ra. Thịnh rót người lưng bát, nhấm nháp chuyện trò như pháo rang. Xong Hưng lại vào xách ra “toong” nữa. Anh Yên chửi thề:
- Đù me, có bao nhiêu xách tuốt ra đi.
Hưng bẩm báo:
- Tuốt tuồn tuột rồi đấy ạ!
Bảy người hai “toong” là thoải mái rồi. Bữa nhậu cũng lâu. Hết đồ nhắm lại chiên cá khô ăn cơm. Ăn xong tầm chín giờ tối mới nhạt miệng làm sao. Có cậu bảo nhau vào sóc mua chè. Anh Yên bảo:
- Từ sáng đến giờ, các “đệ” đã nhiều công cán rồi, cái này để “mỗ” lo.
Anh lấy dây lưng Mỹ ra nào toong, nào K54, nào tăng ni-lon, nào dao găm và cả túi đựng cơm vắt nữa. Anh mở dây rút ở túi đựng cơm vắt ra, lấy gói chè Con Gà, pha nước uống. Anh lấy “toong” Mỹ ra, ở đít có cái ca. Anh rót nước sôi vào toong rồi hai bàn tay cầm gói chè giơ lên: “Các “hiền đệ” xài mấy ngón?” Anh thì ba, anh thì bốn, tôi bảo: “Năm ạ, thưa hiền huynh!” Đúng năm ngón, anh ướm cả bàn tay vào gói chè, bẻ từ đấy để pha. Số còn lại non một nửa. Sáng sau, chúng tôi ăn cơm phụ rồi về đơn vị. Đi rải rác, tốp hai, tốp ba. Về đơn vị vẫn nghỉ ngơi, quanh bàn trà, nói chuyện phiếm. Từ hôm học viên ra trường, anh Hành cho ăn hai bữa, vào chín giờ sáng và bốn giờ chiều.
Tiếp phẩm Nghĩa đi viện, còn tiếp phẩm Cằn - Lương Văn Cằn, người Tày, thì không năng động, tháo vát, rất máy móc. Đã lâu, bộ phận hậu cần cải thiện, anh Hỏa sai Cằn ra Ô Cà Môn mua con chó 10 ki-lôgam giá 100 Rịa, có con vàng 15 ki-lô-gam chỉ 120 Rịa anh không mua. Quản lý Hỏa tiếc quá lại đạp xe ra bắt. Thế là bộ phận hậu cần lại đút củi vào bếp hầm nước cho sôi để thịt chó!
Một thời gian ngắn, đơn vị được báo tin là anh Nghĩa chết ở viện vì căn bệnh hiểm nghèo. Đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt và dáng vóc của anh: người gầy gầy, không cao lắm nhưng vì gầy nên càng tôn thêm vẻ cao cao của anh. Má hóp, nước da mặt sạm, đi lưng hơi gù, ít cười nói, vẻ mặt lúc nào cũng đăm chiêu khắc khổ.
Khi đi viện, tôi sắp đồ đạc cho anh bỏ vào ba lô con cóc, có hai bộ quần áo quân nhu phát cho màu dở nâu dở gụ, hai bộ đồ lót bằng vải đen, một túi đựng ca, bi-đông, muỗng Mỹ, một tăng, một ni-lon màu cánh gián, một võng, một khăn mặt. Túi cóc đút cái hộp đựng bàn chải, kem đánh răng, hộp dao cạo gò bằng vỏ thùng bom bi.
Khi nhận được giấy báo tử, đơn vị cử người lên viện lấy đồ lưu niệm của anh về, và tổ chức điểm nghiệm quân tư trang, gửi lên ban chính sách phòng chính trị, đưa ra Bắc cho gia đình. Quy trình thì như thế, thời buổi chiến tranh này, đồ lưu niệm có về tới nhà anh được không? Ví như trên đường đi, địch đánh, cháy xe, tài bị sức ép chết thì hỏi ai bây giờ!
Năm đồng chí ở trong ban điểm nghiệm là: Anh Du chính trị viên làm trưởng ban, anh Hành đại đội trưởng làm phó ban, anh Yên phó đại đội trưởng, anh Hỏa quản lý, tôi trưởng bộ phận C bộ. Cái ba lô con cóc đi viện có những thứ tôi kể trên, khi điểm nghiệm còn thêm cái kính râm, tiếp phẩm đi đường cho khỏi bụi và nắng và cái đồng hồ Pôn-giốt quai đen đem từ Bắc vào. Còn cái bồng ở nhà vẫn để trên giá ba lô. Mang xuống mở ra xem thì có cái cặp lồng Liên Xô, con dao găm, quyển sổ tay ghi chép mua thực phẩm hàng ngày.
Cái hòm đạn đại liên của Mỹ loại to, khóa cẩn thận, để trên giường anh nằm, thùng đạn còn mới. Anh em trong đơn vị đứng xem đông. Lúc đồng chí Du trưởng ban quyết định phá khóa hòm.
Mọi người hồi hộp. Thế nào trong số đó chả có người nghĩ rằng, làm tiếp phẩm bốn năm, trong ấy chẳng có mấy chỉ vàng, vài cái đồng hồ Sen-cô…
Một nhát búa vào, khóa tung ra. Mở nắp thùng lên, đổ ra giường. Đó là bộ dụng cụ chữa xe đạp và số phụ tùng mới cũ lẫn lộn. Như nồi, trục, bi, xích, líp, phanh… Chẳng có gì ghi vào biên bản nữa. Tôi là ủy viên thư ký, “boong phi nan” (chấm hết) tại đó. Năm người ký vào vị trí chức danh của mình. Chiếc ba lô cóc, chứa cả chiếc bồng lép kẹp gửi lên ban chính sách. Thùng đại liên loại to cùng bộ đồ nghề xe đạp giao cho tiếp phẩm Cằn.
Nhớ cái đồng hồ, hôm anh đeo cổ tay trái nằm võng khiêng đi viện. Cái hôm 20 tháng 4 năm 1969 bị B52 đánh trùm qua đầu, chỉ có tôi và anh là chui được vào hầm. Xong đợt 1, lên miệng hầm, anh còn lấy ngón tay lau lau mặt kính để nhìn xem, bảo: “Sáu giờ mười lăm phút”.
Giờ đây anh đã ngàn năm an nghỉ trên đất khách quê người!

                                                 * * *

Vào trung tuần tháng 10 năm 1972, một số học trò tựu trường khóa 4 cơ công. Đầu tiên là Dùng ở D bộ xuống. Dùng thì chúng tôi đã quen từ lâu và tường tận cả tiểu sử của cậu ta. Học trò mới mà chúng tôi - cả tổ giáo viên - chả cảm thấy mới. D bộ và C1 kề nhau, lúc nào chả gặp nhau trà lá. Chả biết cậu về H19 từ bao giờ, nhưng từ tháng 1 – 1969, chúng tôi đã thấy ở đó, hết liên lạc trên D bộ lại xuống liên lạc đại đội. Cậu đeo khẩu AK gần quét đất, đầu lúc nào cũng cắt cua một mái. Nếu ở thời chống Pháp, nó liệt vào loại “vẹm” (vẹm tức là Việt Minh). Cậu chiến đấu dũng cảm, linh hoạt. Cậu hay bảo chúng tôi: “Các chú chống càn dở ẹc, đánh nhau thì nhát như thỏ đế ấy”.
Không nhớ chính xác quê đâu, lúc nhỏ cùng ba má sống yên lành. Luật 10 năm 1959, ba cậu bị xử chém. Một thời gian má đi bước nữa. Dùng ở với má và chú dượng. Nhỏ đi chăn bò, bị mất một con, không biết là lạc đàn hay người ta bắt hoặc cọp ăn mất, bị chú dượng trói ở cây giữa rừng cho chết. Bộ phận anh Bằng đi công tác qua, nhá nhem tối vọng lại tiếng trẻ la khóc. Anh Bằng bảo mấy anh em cùng đi ngồi đợi để anh vào xem sao. Đến thì thấy cảnh ngộ vậy, anh rút dao găm, Dùng sợ Việt Cộng giết, xin van rối rít: “Con xin chú, đừng giết con mà tội nghiệp”. Anh lựa cắt dây rừng cho rồi dẫn cậu theo Quân giải phóng. Nhận làm con nuôi. Hai cha con đều là học trò của thầy giáo Hay. Ba Bằng học khóa 2, con Dùng học khóa 4. 
Dùng là cậu bé thẳng thắn, thông minh, nhưng cũng dễ thương lắm. Toàn gọi chúng tôi là chú xưng con. Nghe sao ngọt ngào, đầm ấm. Cuối năm 1972 về chỗ tôi học vừa được hai tuổi quân, Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng nhất, cấp hàm tiểu đội bậc trưởng (tương đương thượng sĩ hoặc trung sĩ), chức vụ liên lạc. Chắc là cái cấp hàm tiểu đội bậc trưởng, các vị chỉ huy mới chịu nhả Dùng ra. Ai dại gì mà nhả con người tài năng, dũng cảm như Dùng. 
Có lẽ do cuộc đời khắc khổ, đứng góc độ sinh học mà nhận xét thì Dùng sinh trưởng chậm. 19, 20 tuổi mà giọng nói the thé như chim hót. 20 tuổi mới vỡ giọng, dạo này nói ồm ồm. Anh Hành không để Dùng ở bộ phận hậu cần mà cũng không để ở liên lạc ”điếu đóm” cho anh, mà là ở tổ giáo viên để chạy khí tài huấn luyện. Thế là bộ phận tôi có mười người là: tôi, anh Hiển, anh Hưng, anh Thịnh, anh Tạo, anh Lương, anh Tỷ, anh Thưởng, anh Tự và Dùng. Anh Thưởng là học viên, cấp trung đội bậc trưởng, học xong giữ lại làm khung, giờ biên chế vào giáo viên, chứ anh không giảng dạy được. Anh là người Mường, huyện Bá Thước, Thanh Hóa. Xứ sở của mật ong. Huyện mang tên vị thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa người Mường. Anh về tổ giáo viên là có bốn tay súng đi săn, sở trường cả ngày lẫn đêm. Tổ trưởng Tạo, tổ phó Hay lúc này mới lên mặt “công thần chủ nghĩa” với đại đội trưởng Hồ Hành. 
Tự cùng học với chúng tôi từ Trường Sĩ quan Thông tin, cùng đi Đoàn 239. Những năm trước công tác ở các C khác của H19, nay về tổ giáo viên, quê Phú Bình, Thái Nguyên. Anh Tuấn bệ vệ do “phệ”, còn Tư bệ vệ do bản chất. Mặt vuông chữ điền, phúc hậu. Cứ nhìn cái khuôn mặt thì đã đáng chính ủy rồi. Phong thái bao giờ cũng chậm rãi đàng hoàng, cả ăn nói, lẫn đi đứng. Chúng tôi đã gọi ngay từ Trường Sĩ quan Thông tin là Tự “Chính ủy” rồi. 
Giáo viên mười người, hậu cần mười hai người trừ hai nấu bếp còn mười. C bộ mười ba người trừ hai chủ chốt là anh Hành, anh Du còn mười một. Thôi thì mười một bỏ làm mười. Khối lượng công tác chia đều. Cái khoản ăn chia này thì anh Hành sòng phẳng lắm. Tôi phục lăn long lóc. Không có ưu tiên bộ phận nào cả, lính tráng mà ốm của C bộ thì chủ chốt Hồ Hành, Trần Du cũng đi tải gạo, khiêng nai, khiêng hoẵng, ra rẫy lấy rau. Nhìn vào phong thái của đại đội trưởng, chẳng anh nào dám ỷ lại trông chờ. 
Vào hạ tuần tháng 10 năm 1972, chúng tôi cứ ngong ngóng cái ngày 31 tháng 10. Sắp đến, đài của mình nói sa sả ký hiệp định Paris. 
Anh Hành bảo: “Ký hiệp định Paris thì thịt con lợn to nhất tạ hai ăn mừng”. Mỹ ngụy lật lọng. Khí thế xẹp xuống như quả bóng đá căng hết cỡ bị thủng. Sau 31 tháng 10, đơn vị bước vào giai đoạn công tác mới, chưa từng có. Mỗi bộ phận một nửa đi chỉnh huấn để “lên dây cót”, một nửa trồng sắn. Tự ở bộ phận giáo viên được cử đi chỉnh huấn đợt đầu. 
Ngày đầu chúng tôi phát rẫy uể oải. Trông cái rẫy bạt ngàn đã phát ngấy. Chỉ tiêu mỗi người 500 gốc sắn. Vị chi đơn vị 17.500 gốc. Cứ cho là 20.000 cho chẵn và dễ nhớ. Chỉ tiêu của Bộ chỉ huy Miền là vậy, chứ tình hình cụ thể ở vùng này dại gì mà anh Hành cho trồng sắn, trồng ra ai ăn. Chúng tôi chế biến gieo trồng lúa, ngô nếp, lúa nếp, đậu, lạc… 
Chiều xa, thấy đoàn đi chỉnh huấn ở tiểu đoàn bộ về. Chúng tôi hỏi sốt sắng: “Tình hình sao? Sao?”. Tự “Chính ủy” giơ tay như phát biểu, đủng đỉnh trả lời: “Con lợn tạ hai của chúng ta vẫn cứ phải chết!”. Một số anh em chậm hiểu ngơ ngác. Tôi giải thích: 
- Ý của “Chính ủy” nói là: khả năng ký hiệp định Paris vẫn còn. 
Chúng tôi vác dao quắm, cùng đoàn chỉnh huấn về cứ. Tối đó khí thế lại nhen lên. 
À quên chưa nói, vừa rồi chúng tôi có chuyển cứ sang bên kia rẫy dạo thiêu cụ bà Việt kiều. Cách cứ cũ và D bộ cỡ 10 phút. Đó là cứ của Phòng 6 (phòng quân huấn và địch vận thuộc Cục tham mưu) bỏ từ giữa năm 1971 về khu A. 
Tốp tôi có bốn người đi tập huấn máy thông tin ở khu A, thời gian ba tuần. Cứ cho là một tháng cả đi lẫn về. Tôi tất nhiên là phụ trách rồi. Nhân viên có Tự “Chính ủy”, Thính “Văn nghệ” và Vấn “Kít-sinh-gơ”. 
Thính học viên khóa 2, học xong bổ sung tổ sửa chữa máy của tiểu đoàn. Quê Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Học sau tôi hai lớp ở cấp 3 Trần Phú. Người có tài văn nghệ, hát hay, học giỏi, tán chuyện khéo, nên gọi là Thính “Văn nghệ”. 
Đào Vấn là người ở tổ sửa chữa máy của tiểu đoàn bộ, chuyên “chữa cháy”, tức là chỗ nào cần, ấn anh vào là xong ngay. Đi tiền phương, chiến dịch xong đợt lại về D bộ H19. Ở H19 từ 1968. Khi học chính trị phát biểu dài. Sinh hoạt đơn vị, họp chi bộ phát biểu mạch lạc, rõ ràng, dứt khoát. Đôi khi gợi ý lái người chủ trì hội nghị trong lúc bí, chưa có hướng giải quyết. Năng lực làm công tác chính trị, công tác câu lạc bộ miễn chê. Nói năng hùng biện. Nên anh em đặt cho là Vấn “Kít-sinhgơ”, quê Văn Lâm, Hưng Yên. 
Nhiệm vụ tập huấn lần này là học hai máy mới là 81 và 884. Học lý thuyết ở ban kỹ thuật, thực hành sửa chữa ở Xưởng 35. 
Cuối tháng 11 chúng tôi xuất phát. Từ Ô Cà Môn xuống Bưng Dồn hết một ngày đi bộ. Anh Năm Quỳnh phụ trách trạm an dưỡng Bưng Dồn kiêm trạm giao liên nội bộ Phòng 3. Anh lính chín năm tập kết ra Bắc. Từ khi có Luật sĩ quan 1958 anh được phong hàm Đại úy, nay vẫn vậy. Trông dáng vóc diện mạo anh, ai cũng bảo là tướng. Dân Miên gọi anh là “lục thum” chính hãng. Đã lâu anh đóng vai nhà tư sản, buôn bán với tư sản Miên và Hoa. Tỉnh lỵ Công Pông Chàm, thủ đô Phờ Nông Pênh, Xiêm Riệp, Bát Tăm Băng, Xi-ha-núc Vin… anh đều thông thổ. Móc nối mua vật liệu vô tuyến điện cho thông tin và các thứ khác cần cho Quân giải phóng cũng là anh. Anh là quân của nhà đại tư bản trung tá Hoàng Phương. Sau đảo chính Xi-ha-núc, anh về nước. Chưa bố trí việc gì, tạm làm trưởng an dưỡng ngót hai chục người. Bốn chúng tôi đến, anh Quỳnh mừng. Nài chúng tôi ở lại vài ngày để trạm có việc. Kịp cho huấn luyện, tôi chỉ để anh em nghỉ một ngày thôi. 
Bây giờ mới được tiếp xúc với anh Năm, chứ tiếng tăm thì đã biết từ khi mới đặt chân đến K48. 
Anh đang nói chuyện thì cậu y tá đến, anh bảo: “Thằng con nhà Miên hôm qua đến cấp cứu hơn 43 độ C nó lại chả chết”. Y tá trưởng vặn lại bác không biết chuyên môn: “Làm gì có 43 độ hả bác?” 
- Thế thủy ngân trên vạch đỏ thì chẳng 43 độ là mấy. 
Xong anh bảo: 
- Cơm nước sớm để tối nay xem bộ phim “Trung đội trưởng Cao Sơn”. 
Y tá vặn lại: 
- Trung đội phó Cao Sơn chứ bác! 
- Đù me, cô ta đi theo quân giải phóng bao nhiêu năm mà không lên được một cấp à? 
Chúng tôi cười và bảo: 
- Bác hài hước quá! 
Tôi lại dùng từ: 
- Bác Năm nói “trào phúng” quá. 
- Ờ, cậu bảo tớ nói “trào phúng” cũng được. 
Bác kể tiếp: 
- Anh Hoàng Phương nằm viện Phờ Nông Pênh, mấy bác sĩ người Pháp nó bảo: “Thưa ngài, có lẽ răng của ngài đánh bằng nước suối thì phải”. Rồi bọn tư bản Miên ở Xi-ha-núc Vin nó bảo tớ: “Sao phu-li của các ông chăm làm thế”. Tớ bảo: “Cứ cho nó ăn no, không đánh nó là nó chăm làm”. 
Sáng hôm sau nữa, ăn phụ bánh cuốn. Mỗi người nắm cơm chính và thức ăn. Anh Lê Chí Nguyện đưa xuồng máy ngang sông sang bên Cô-xi-ma, chứ làm gì chúng tôi có tiêu chuẩn đi suốt. 
Một số quân nhân Miên, chiều hôm kia gặp nhau trên đỉnh dốc Bưng Dồn, hôm nay cũng qua sông, anh Nguyện cho đi nhờ.
Đi phía bờ Nam Mê Kông ngược dòng về Sa Lông. Lúc chuyển lên đây đi xuồng máy, giờ đi bộ có dịp ngắm cảnh dân chúng làm lụng, sinh hoạt ở lưu vực Mê Kông. Thỉnh thoảng lại gặp một nhà thờ của dân Chàm to lắm. Họ đi đạo Hồi. Tầm quá trưa, nghỉ tại sóc người Chàm, nhờ nhà dân ăn cơm chính. Một số cô gái trẻ người Chàm đến trêu đùa chúng tôi:
- Giải phóng Việt Nam có ăn khế không?
- Có chứ!
Thế là các cô khều cho vài quả, hỏi:
- Không sợ dân Chàm bỏ thuốc độc à?
- Sợ gì! Thế là các cô khúc khích cười.
Một ông già cỡ 50 tuổi, xách tích nước chè xanh cho chúng tôi uống. Ông rót một chén uống trước. Ông ngồi nói chuyện:
- Dân Chàm, dân Việt, Khơ Me, Hoa cũng có người tốt, người xấu.
Tụi Lon-non, tụi Sài Gòn nó cứ tuyên truyền dân Chàm xấu để chia rẽ, hay ám hại Quân giải phóng. Thực ra chỉ số ít bị kẻ xấu mua chuộc mà thôi. Đa số dân Chàm vẫn quý mến, giúp đỡ Quân giải phóng. Tôi thấy đa số Quân giải phóng ngại tiếp xúc với dân Chàm. Dân Chàm không ăn thịt lợn là tập tục của người Chàm, cũng như người Việt, người Hoa, người Khơ Me không ăn thịt chó là tập tục của họ.
Tạm biệt ông ra đi, chúng tôi vẫn cứ tấm tắc khen ông già Chàm mà am hiểu, giác ngộ đáo để. Đi tiếp, ba giờ chiều chúng tôi đi qua một nhà ở ria đường. Chị người Miên để đứa bé trong lòng, còn đứa nhỏ ba bốn tuổi ngồi xổm xem mẹ cắt tiết gà. Một chân chị dẫm lên hai chân con gà trống to tướng phải đến ba cân. Một tay quặt đầu xuôi với cánh, một tay cầm con dao bài cắt tiết.
Thấy chúng tôi đi qua chị cho. Thính quay lại lấy. Chị bảo là gà rù, cắt tiết cho nó ngon thịt. Đúng là chỉ chảy được ít tiết ra sân đất.
Thính xách hai chân con gà chết. Khéo sao khi chết, cổ nó lại cong quặp vào bụng. Đi bên bờ sông Mê Kông mùa này lộng gió, lông cổ nó sược lên bay lất phất. Chẳng mấy ai để ý biết nó là gà chết. Dân ở bên nào đông, Thính lại đổi tay về bên ấy. Có nhã ý là khoe Quân giải phóng ăn sang. “Có bốn người mà mua con gà to thế!”.
Gặp một tốp ba bốn cô Hoa kiều đi xe đạp cùng chiều, đến gần cậu dí cái mỏ gà vào đùi một cô. Khiến cô ta xấu hổ đỏ mặt. Mấy cô kia khoái chí cười, nói là: “Mon khăm” (Gà cắn).
Thính đưa gà tôi cầm. Ba người vào mua những thứ cần thiết. Tôi chẳng mua gì, còn dành tiền mua thuốc lá. Thính thì chủ yếu là tán những cô bán hàng. Ngoài vấn đề học giỏi, văn nghệ cừ, anh bạn vừa là học trò, vừa là đồng môn trường tỉnh của tôi, có vẻ hay “của nếp”. Mua hàng lâu ơi là lâu, ngồi chờ sốt cả ruột. Tôi vào xem sao, thì ra Thính vẫn cầm bánh xà phòng ngắm nghía chỗ chuột gặm. Hai cô bán ở quầy đó có vẻ là Hoa kiều lai, trông xinh xắn nhất. Thính cứ: “Khăm, khăm…” (Cắn, cắn...). Hai cô đổi bánh khác. Không nghe mà bảo là “cần đo khăm xà bu” (Con chuột cắn xà bông). “Cần đao” thì cậu lại nói là “cần đo”. Bấy giờ Thính cùng hai cô nhoẻn nụ cười tủm mới chịu đi.
Khoảng hơn năm giờ chiều chúng tôi đến trạm giao liên. Trạm nằm ngay bên kia cửa sông nhánh đổ vào Mê Kông, chỉ rộng 15, 20 mét, không có cầu, phải đi đò. Lên đò là vào trạm, chỉ có ba nhân viên. Chúng tôi có bốn người, ở chung với trạm, không phải lên nhà khách.
Sáng ra, đi chừng hai tiếng, coi như đã ngớt bụng. Tôi dắt anh em vào quán hủ tiếu của người Hoa. Chủ quán hỏi: “Các chú ăn phở lạt hay phở xào?” Tôi bảo: “Chúng tôi ăn phở lạt”.
Ông làm cho bốn tô phở bò. Ăn xong trả tiền, ông không lấy.
Suốt bờ Nam Mê Kông đi ngược dòng, mùa ấy đúng độ dân nấu đường thốt nốt. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp một lò. Ngồi nghỉ mỗi người làm nửa ca Mỹ, lúc đi nửa ca nữa. Một dãy mấy cái vạc to họ đun, chúng tôi múc uống ở vạc mới đun, chứ những vạc gần thành đường uống khé cổ.
Đến thị trấn Sa Lông lúc chiều tà, nó là thị trấn huyện lỵ của huyện Sa Lông, to như thị trấn Mi Mốt, nhưng đẹp hơn, có nhà máy giấy ở trên bờ sông. Dạo ở phum Thơ Mây, Hưng chỉ huy anh em đi lấy giấy ở đây. Nếu không bị thiêu ở Bến Kết thì tha hồ mà dùng mấy năm mới hết.
Chúng tôi đến ở nhờ nhà quen ở xóm Việt kiều mà dạo cuối 1970 di chuyển lên đây đã ở nhờ. Dân xóm thấy chúng tôi đến vui mừng. Hỏi chuyện tíu tít, hỏi thăm những người quen. Các nhà hùn lại làm cơm thết chúng tôi bữa tối ấy. Cơm xong ngồi nói chuyện đến khuya mới giải tán. Dân có ý trách, từ ấy đến nay không ai lai vãng đến chơi. Tôi cũng bày tỏ để dân thông cảm vì ở xa, cách đây mấy ngày đường. Dân cũng cho biết, trận càn 1971. Từ ấy dân Miên và Hoa Kiều ghét người Việt. Nguyên do là: trận càn 1971 sang Campuchia do trung tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy. Các xe thiết giáp nó chăng khẩu hiệu “Các anh giải phóng giãn ra để chúng tôi diệt mấy thằng Miên”. Khi sang Cao Mên nó lấy của cải, thóc lúa của Miên và Hoa cho Việt kiều. Nó bắt ba ông sư đội cái chảo như ba vua bếp. Thằng ngụy ngồi trên đó, nếu để ngã nó giết. Nó còn bắt sư sãi hãm hiếp phụ nữ Miên và Hoa trước mặt để xem… Nhiều điều dã man khác nữa.
Bấy giờ ở đơn vị, chỉnh huấn đã nói: mục đích là gây chia rẽ Việt kiều với Miên và Hoa, tức là đánh vào Quân giải phóng.
Thời kỳ đó, nhiều đơn vị Quân giải phóng, theo kế hoạch, vượt Mê Kông lên bờ Bắc chỗ chúng tôi.
Trận càn ấy tướng Trí đi trực thăng đến Trảng Lớn bị pháo binh Quân giải phóng bắn rơi. Tướng tài của ông Thiệu bị tử trận. Cuộc càn đang tiếp diễn thì lệnh của Bộ chỉ huy Miền là “đơn vị nào ở đâu thì ở đó, không phải di chuyển nữa”. Tiếp đó cuộc càn bị Quân giải phóng bẻ gẫy.
Sau trận càn đó, dân Miên mới có từ: Giải phóng Hà Nội, giải phóng Sài Gòn và giải phóng Miên.
Tôi nghe kể lại chứ không được chứng kiến là:
Một hôm đại đội có bảy người đi tải gạo tận Bông Cà Nhang. Về ngang đường anh em tạt vào nhà dân mua mít ăn. Vào một nhà có quả mít to, bảy người ăn không hết. Nhà ấy có cụ già người Miên, cụ bảo, các chú là giải phóng Hà Nội hay giải phóng Sài Gòn? Anh em trả lời là giải phóng Hà Nội, tức là Quân giải phóng.
- Ờ, nếu là giải phóng Hà Nội thì tôi cho, nếu là giải phóng Sài Gòn thì tôi bán, nếu là giải phóng Campuchia tôi không bán mà cũng không cho.
Đêm ở Sa Lông ngủ chả được mấy. Sáng sau dân làm cơm cho ăn rồi tiếp tục đi. Bảy giờ xuất phát, tạt qua phố Sa Lông chơi. Hoa kiều toàn cửa hiệu to, người Hoa ở san sát.
Chúng tôi vào cửa hiệu đồng hồ xem, bà chủ người Hoa, tưởng chúng tôi thích. Mở cửa tủ bảo: “Các chú thích xài cái nào cứ lấy”.
Chúng tôi bảo: “Cảm ơn bà, quân giải phóng không cần ạ, đeo tay vướng khó đánh Lon-non và đánh Mỹ”.
Từ Sa Lông đi đò sang Cần Dò, qua bãi trống đến ban kỹ thuật của Phòng 3. Do kỹ sư Hoàng Trung (Hoàng Vân) làm trưởng ban, hai phó ban là kỹ sư Hoàng Bôi và kỹ sư Trần Thắng con thiếu tướng Trần Độ quê Tiền Hải, Thái Bình.
Ban kỹ thuật khoảng trên dưới hai mươi người, toàn người quen cũ, có hai phó ban giờ mới biết.
Về tập huấn ở đây như ở nhà. Bố trí bốn người ở hội trường sửa chữa máy. Cách nhà anh Bôi vài mét, tôi thường bị anh gọi sang uống nước và cách nhà anh Trung và anh Thắng vào hai chục mét. Quản lý bếp ăn là cậu Ninh học trò khóa 2 của tôi, về đây công tác. Đợt này đến lượt cậu làm quản lý. Nhà ăn vẻn vẹn có bốn cái bàn. Một hôm ngồi cùng bàn ăn với anh Thắng, anh nhắc quản lý Ninh rằng: “Này, mỗi mâm chỉ được một khúc, ăn không đủ bữa. Sao anh không mua cá linh cho nó rẻ. Cứ câu nệ, ở nhà mình còn ăn con đòng đong cân cấn được nữa là”.
Nói thêm là cũng tiền ấy mà mua cá linh, nó bằng hai, ba ngón tay dài cỡ 20, 25 phân, bỏ đầu, bỏ đuôi kho hoặc rán mỗi mâm đĩa men hoặc đĩa nhôm đầy ắp.
Bốn chúng tôi về võng nằm vẫn bàn tán, anh là con tướng mà sinh hoạt quần chúng ghê. Đã từng ăn con đòng đong cân cấn bằng móng tay. Có lần anh kể, dạo ít tuổi học ở Nam Ninh, Trung Quốc. Nằm cùng giường với một cậu, cậu ta nằm tầng trên. Những lần liên hoan hay lễ tết. Ăn thừa thịt cậu đút vào túi áo bông. Đêm nằm cứ thấy nhai tóp tép. Tôi hỏi, thò tay vào túi áo bông lấy ra một nắm đưa tôi: “Mày ăn không?”. Tôi sợ cái cách bỏ thịt vào túi áo bông của cậu ta.
Hôm anh lại kể:
- Đơn vị xuất phát đi B là ở Nhà máy Thông tin M3 - “Túi” đựng những con ông to.
Tôi bảo:
- Anh cũng ở túi đó ra hả.
Không, mình khác, ở M3 mình đã là kỹ sư, là sĩ quan rồi, có nghề nghiệp đàng hoàng. Chưa là cán bộ lãnh đạo thôi. Ở cái hàm thiếu úy thì chỉ huy ai.
Nhà anh ở có cái ra-đi-ô Mác-giơ-nét, ba mươi mốt băng, nghe thích thật, có cái ti vi 12 inh, chiến lợi phẩm khi giải phóng Lộc Ninh. Bộ chỉ huy Miền tặng Phòng 3, Phòng 3 lại tặng ban kỹ thuật. Tuy là một bộ phận, trung úy Hoàng Trung chỉ huy vẻn vẹn hai mươi người nhưng nó là tứ trụ của Phòng 3. Tham, Chính, Hậu, Kỹ.
Tập huấn máy 81 của Trung Quốc 15W bán dẫn để dần dần thay cho 102E, 139. Học máy bộ đàm đơn biên 884 để dần dần thay cho K63, 71B1, P126…
Học mười ngày xong lý thuyết, tạm biệt ban kỹ thuật về Xưởng 35. Chúng tôi làm tặng ban kỹ thuật một buổi củi đun bếp. Ban kỹ thuật thịt con lợn tặng chúng tôi bữa liên hoan.
Tốp tôi đến Xưởng 35 thực hành hai máy trên 10 ngày. Đến xưởng cũng quen gần hết, anh Giáp và anh Ích được cử hướng dẫn chúng tôi. Buổi đầu thầy gặp gỡ trò. Anh Ích bảo: “Có quái gì mà phải thực mới hành với các sư huynh. Máy đây, Bủ cho anh em mở ra mà xem. Riêng cái máy phát 81, con sò công suất ốc xuống bệ máy để tỏa nhiệt, đồng thời là co-lếch-tơ, cứ hàn quách nó xuống cho đảm bảo. Bắt ốc khi bị rỉ, mô-ve thì công suất hạn chế lắm. Chỉ lưu ý thế thôi”. Mấy ngày chúng tôi thay nhau xem các máy trên.
Một hôm buổi chiều chúng tôi đang xem máy thì thấy có tốp anh Trung, cậu Quang, cháu Tươi tạt vào xưởng kéo anh Ích đi cùng. Theo lệnh của Bộ chỉ huy Miền là Phòng 3 chữa cái máy chiến lợi phẩm, chuẩn bị cho “giải pháp”. Kỳ này đi, ngoài dụng cụ sửa chữa ra còn mang theo cái bóng đèn 500W để thử máy cho khỏi bị lộ làn sóng điện.
Tôi báo cáo anh Bốn Ngọ giám đốc C35 cho chúng tôi về đơn vị. Anh đồng ý, nhưng ăn xong ngày 22 - 12 đã hẵng về.
Ngày 23 tháng 12 năm 1972, tạm biệt Xưởng 35 để trở về khu B. Ngày thứ nhất đến Cần Dò, ngày thứ hai đến Sa Lông mà Cần Dò cách Sa Lông chỉ ba mươi phút đi bộ, lại nghỉ ở đó một ngày, đi chơi, đi chợ, đi các chùa xem… Tối đến vào Trường trung học Hoa kiều xem họ hòa nhạc.
Ngày thứ ba đi vượt trạm giao liên xa xa mới ở nhà dân. Ngày thứ tư đến trạm anh Năm Quỳnh. Hỏi thăm anh em hậu cần tiểu đoàn về tình hình C1. Họ cho biết C1 đã có học viên về nhưng ít lắm, tự kiếm được cái ăn, nên chẳng thèm xuống đây lấy cá và lên tiểu đoàn lấy đậu phụ. Nhiệm vụ của họ vẫn là khoan lính.
Tôi bảo anh em, an dưỡng ở đây cũng như ở nhà, nghỉ vài hôm chơi phố rồi về thôi.
Cuối tháng 12 năm 1972, đầu tháng 1 năm 1973, chúng tôi về đơn vị. Được vài hôm, tôi bị sốt rét, báo cháo nhà bếp. Nuôi quân Nguyễn Văn Ngôn, quê Kim Bảng, Hà Nam, cậu quen kiểu ăn cháo của tôi. Cho gạo hoặc cơm cũng được vào xoong con, đổ nước vừa phải vào đun, hột gạo vừa chín tới vẫn còn nhuôi nhuôi. Rau muống, rau dền, rau cải, rau lúa vú… nói chung rau gì cũng được, thái nhỏ cho vào đun chín rồi bắc ra cho mắm, muối, mì chính là xong. Làm xong, nuôi quân Ngôn để trên bàn ăn, chưa kịp mang cho tôi thì cậu học viên mới về không biết bảo là “thằng nào lại để cám lợn lên bàn ăn”, thế là đổ toẹt vào vạc nước rác.
Xuống nhà bếp, tôi hỏi Ngôn, cậu đi tìm, ra sàn nước thì xoong nấu cháo không vẫn chềnh ềnh ở đó. Sốt rét bây giờ nó cũng quen rồi. Đang nằm run cầm cập nhưng bộ phận nào thịt gà hủ tiếu mời, thì cũng cố gắng đi được không bỏ.
Chiều 23 tháng 1 năm 1973, anh Thưởng xin được bộ ka-ki Tô Châu của lính mới vào, cùng Dùng ra sóc đổi được mười con gà. Tối đó liên hoan cho tôi và anh Tạo đi K50. Anh Tạo điều trị thận, tôi điều trị mắt. K50 nằm gần Cần Dò, gần dốc D40. Thế là sơ bộ biết lối đi. Tối nay cứ yên chí liên hoan hết mình. Mà mai không đi thì mốt đi. Đi viện điều trị bệnh mãn tính chứ có phải cấp tính đâu, lại càng không phải tác chiến thì cần gì đúng ngày, giờ. Mười gà, mười người không ai chung với ai. Đồ chấm tự pha chế. Trước khi ăn, anh Thưởng kiểm tra cần câu cắm ở suối được con chuối bằng bụng chân và dùng phế liệu của mười con gà bẫy được con kỳ đà nặng mười hai ký nhốt để mai. Nhậu thịt gà rượu xong, anh Tỷ không ăn cháo, xách súng đi, loắng một cái đã thấy tiếng súng nổ ở phía sông Chằm Ních. Lát sau anh Hành cho liên lạc báo, anh Tạo cử bốn người đi khiêng nai. Con nai tạ hai, chặt ra bốn góc, khiêng về nhà bếp làm béng một góc nấu ăn ngay.
Tối 25 tháng Giêng, tôi và anh tạo đến trạm giao liên lần trước ở. Có hai người mà họ cho ở nhà khách trạm. Đó là cái nhà lợp tôn to lắm, nhìn đuối tầm con mắt mới tới đốc kia. Tôi, anh Tạo mắc võng ngủ ở đầu này giáp nhà trạm. Có cái máy ép thuốc lá to và nặng, có đống rác quét đùn ngay xó nhà to tướng. Một rẫy lò sấy thuốc họ xây đẹp chứ không như của hợp tác xã quê mình.
Tối ngồi uống nước, nói chuyện họ mới biết chúng tôi là thợ chữa đài. Họ bảo mai ở lại trạm chữa cho mấy cái đài hỏng. Chúng tôi chưa nhận lời. Lúc lên võng nằm tôi bảo anh Tạo là: “Mai mình ở đây không đi vội. Vì mai là 26, ngày kia là 27 ký Paris, ngừng bắn. Mai 26 nó sẽ đánh Sa Lông. Dại gì ta đi đâm đầu vào lửa”.
Quả thật, sáng sớm máy bay đã đến bắn phá hướng đó. Tầm 7, 8 giờ sáng đã có tin địch đánh Sa Lông chính xác.
Tôi và anh Tạo đi viện, mang đầy đủ trang bị phòng khi đơn vị di chuyển.
Dụng cụ sẵn, tôi và anh Tạo chữa một số ra-đi-ô hỏng cho họ. Có hỏng gì quan trọng đâu, chủ yếu là tiếp xúc pin, chiết áp bẩn, công tắc bẩn, đứt dây cu-roa, cùng lắm là già đèn công suất… toàn hỏng nhẹ.
Ngày đó trạm tiếp chúng tôi thịnh soạn cả bữa trưa lẫn bữa tối.
Trong lúc ăn cơm, họ phàn nàn, dạo nọ đoàn khách bốn người mang gà toi đến thịt, lây ra “chết vãn” đấy chứ, trước đây nhiều lắm. Tôi im và lờ đi.
Chúng tôi ở tiếp ngày 27 nữa, sáng 28 mới đi Sa Lông. Chẳng có việc gì, mắc võng nằm nghe đài. Buồn thì lấy cái chổi quét nhà thu vào góc. Tôi thấy đống rác to. Lấy xẻng của trạm xúc vào thúng bưng đổ ra vườn. Thục làm một nhát xẻng thấy cấn tay. Bới ra xem, thì ra là tảng thuốc lá ép. Tôi khoái quá, con dao găm và mượn trạm con dao rựa, gậy ra lấy một tảng. Đẽo vừa vặn để đút lọt bồng. Đồ đạc dắt vào dây lưng Mỹ và gửi bớt bồng cho anh Tạo. Tôi khoác tảng thuốc nặng đến 30 kg. Nó cứ như vỉa than đá ấy. Lấy dao găm gậy ra một mảnh mỏng như tờ giấy vẽ. Để dưới nền nhà nó hút ẩm, bung ra mấy tàu thuốc khô nguyên vẹn. Sợi thuốc vàng ươm, thơm phức, ngọt khói.
Chiều 28 chúng tôi đến Sa Lông, một số nhà cột to vẫn còn cháy, số đống thóc của dân vẫn cháy âm ỉ khét lẹt. Dân chúng sơ tán đã lác đác gồng gánh, bồng bế nhau về…
Vào viện K50 nằm một tháng là anh Tạo ra viện. Có tin nhắn vào là, đồng chí nào ra viện thì về khu vực Đầm Lê Phông để tìm đơn vị. Tôi nằm viện hai tháng rưỡi. Tầm giữa tháng tư năm 1973 mới ra viện. Họ biết tôi là thợ, đem đài đến chữa hộ. Tôi chỉ chữa cho mỗi thành phần một cái từ bệnh nhân đến ban chỉ huy viện.
Có ba cái ra-đi-ô tôi chữa hộ là kỉ niệm sâu sắc nhất. Một là cái của đồng chí thương binh cụt một chân tên là Tân ở cùng huyện. An dưỡng chờ chuyến ra Bắc. Sau ra Bắc lại nằm viện với em thứ năm của tôi, sang Lào đánh nhau cũng cụt chân. Hai lính cụt chân gắn bó đi lại với nhau đến khi anh Tân qua đời vào năm 2000.
Cái thứ hai là chữa cho đồng chí Huỳnh người xã Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, lính đoàn xe thồ. Mãi đến năm 1978, anh Huỳnh và anh Thường mà tôi cứu sống ở Viện 1, hai anh cùng công tác ở cửa hàng than gỗ Cổ Loa. Một hôm, hai anh đạp xe chín ki-lô-mét về nhà tôi chơi. Tôi cũng có nhà, đi lùng mua được nửa lít rượu, rang bát bạc, ba người uống ôn lại chuyện chiến trường. Tôi không quên nhắc đến cái đèn xe thồ của anh Huỳnh, lẽ ra bây giờ phải bỏ vào viện bảo tàng quân đội. Không chữa đài cho anh làm sao hôm nay chúng tôi hội ngộ ở đây.
Cái thứ ba là chữa cho ban chỉ huy viện. Chẳng là hôm đi chúc tết, các đồng chí thấy tôi chữa đài, thế là đồng chí chính trị viên viện đem cái Hi-ta-chi “mặt nâu” đến tôi chữa hộ. Đồng chí bảo, đang nghe tự nhiên hỏng. Tôi nghĩ chữa để đồng chí lấy ngay. Đồng chí từ chối về còn bận công tác. Thế là yên tâm tà tà chiều xem. Nhưng chữa mãi đến cơm tối vẫn chưa xong. Tôi đi có bài bản. Phát hiện đèn âm tần đầu đấu sai chân và mất đi-ốt tách sóng, đấu vào nghe được nhưng nghẹt tiếng, liền thay cho hai đèn công suất, lập tức đài nói oang oang, tiếng tròn ro.
Nhắn anh xuống lấy đài tôi bảo: “Đài của anh không phải đang nghe tự nhiên tịt mang tôi chữa”.
Anh thú nhận, lúc đầu nghe nghèn nghẹt, đưa thợ chữa không được mà tịt luôn.
Tôi bảo đấu sai mạch điện là tịt, còn lúc đầu nghẹt tiếng là đôi đèn công suất kém, tôi thay cho rồi.
Anh cảm ơn và mang đài về. Trước khi về anh kể lai lịch cái Hi-tachi mặt nâu cho chúng tôi nghe: “Hai đồng chí tiếp phẩm đi công tác, gặp mấy thằng Miên đang phát rẫy mở đài nghe. Chúng ra trấn lột hai khẩu AK rồi chạy thục mạng vào rừng trốn thoát, bỏ lại cái đài này. Anh em mang về viện nộp làm của công. Viện có làm việc với địa phương, họ không trả lại súng, nhưng bảo họ ký nhận bàn giao súng thì họ ký.
                                                                                    ( Còn nữa )

                                               Được đăng bởi Nguyễn Như Khánh


0 nhận xét:

Đăng nhận xét