30/8/17

Tự truyện " Nẻo đường " Kỳ 15 ( Kỳ cuối )


                           H19 di chuyển về Tây Ninh

Tết Quý Sửu 1973, chúng tôi ăn ở Viện K50. Ký Hiệp định Paris 27 tháng 1 năm 1973 vào 24 tháng Chạp đủ năm Nhâm Tý. Tháng Chạp đủ, thế thì còn sáu ngày nữa là tết.
Các nhà tiểu đội, bộ phận làm chuồng nuôi cả trăm gà. Mang thùng đạn đại liên lớn xuống kho xúc gạo, xúc ngô mang về gà ăn. Đi rừng làm hai ổ mối đóng cọc vào, làm đoạn cây gánh về cho gà ăn dần. Lúc cho ăn, lấy dao Mỹ phạc cho mấy cái vào ổ mối. Mối con nào con nấy to như hạt gạo, mũm mĩm. Gà con lăn xả vào ăn. Mải ăn, phạc con mất đầu, con đứt đôi.
Suốt thời gian ở Ô Cà Môn, sáng ăn phụ xôi ngô, gọi là ăn phụ chứ ở quê mình nó là quà. Đi chợ, mua xôi ngô gói lá sen về chia cho trẻ con, đứa một nắm. Đàng này ăn phụ mà no, thừa đổ vạc nuôi lợn. Ăn phụ sáng thức ăn hôm thì đĩa cá kho, hôm đĩa muối lạc, hôm thì lạc bom bi, chỉ vậy thôi.

                                                   * * *

Cuối tháng tư năm 1973, viện đang có kế hoạch di chuyển. Nay là giữa tháng, bệnh nhân kha khá cho ra hàng loạt để gọn nhẹ. Tôi đứng đầu trong số đó. Bác sĩ kết luận: Mắt phải thoái hóa hoàng điểm không chữa được.
Sáng đó ra viện đông lắm, mình tôi một đơn vị. Tám giờ sáng mới quyết xong các thủ tục và xuất phát được. Đi qua một bãi trống rộng đến dốc D40. Đi được độ ba mươi phút thì có trận B52 đánh khu vực gần Đầm Lê Phông xối xả. Cách đây độ một tháng, địch lác đác đánh bom, gần đây chúng bắt đầu đánh dữ dội. B52 đánh ít hơn năm 1969 nhưng B57 đánh nhiều về ban đêm. Cừ ào ào một cái là năm, bảy quả bom trút xuống rồi đi thẳng.
Tầm một giờ chiều, tôi đi một mình đến cổng sóc Đầm Lê Phông. Ngay chỗ ngã ba, gặp đoàn xe Zin cả chục cái chuyển quân về đất Việt Nam. Tôi khoác bồng đứng giữa ngã ba. Xe qua rầm rầm, bụi mịt mù. Tôi có cảm giác như chiến sĩ hồng quân, đứng chỉ đường cho những chiến xa Xô - viết phản công phát xít Đức trong thế chiến 2. Không biết mình đọc sách nào, xem bộ phim nào mà bấy giờ gợi lên cảm giác như vậy. Áo quần bám bụi bê bết.
Dò dẫm hỏi thăm đường đi, đến ba giờ chiều mới đến D bộ H19. Chỉ còn anh Liễu tiểu đoàn phó và chục đồng chí ở lại bốc hàng, còn đại quân đã chễm chệ trên đất Tổ quốc rồi. Anh Liễu phân công mỗi hầm hai đến ba đồng chí. Không được tụ tập ăn uống chơi bời. Anh ở với liên lạc Phương. Tôi đến nữa là ba. Các hầm khác chỉ hỏi vọng sang:
- Ra viện về hả?
- Ờ!
Anh bảo tôi uống nước, hút thuốc. Xong anh bảo ăn cơm nguội. Tôi bảo: “Cơm viện trong bồng em đã ăn đâu”. Tôi tách cho anh vỉa thuốc lá, anh khoái.
Anh chỉ đường cho tôi về C1. Đại đội 1 vẫn còn một tổ do anh Võ Thành Tạo, đại đội phó chỉ huy. Anh Tạo mới ở Bắc vào tôi chưa biết, còn anh Phạm Hữu Tạo thì ở từ lâu. Từ D bộ về C1 chỉ ba bốn mươi phút. Đi một mình cũng sợ. Vừa đi vừa hát nghêu ngao để “lên dây cót”: “Em thơ bao nhiêu tuổi đã biết ngồi vót chông?...” Mỗi bài, hát một hai câu.
Tự nhiên có một lính quát làm tôi giật cả mình:
- Yêu đời thế ông? Sáng nay chẳng ở đây mà hát cho át tiếng bom.
- Kệ nó chứ!
- Ông tưởng, khu vực này mấy hôm nay nó đánh vuốt mặt không kịp đấy!
- Tớ là sứ giả của hòa bình, đi đến đâu là hết bom đạn, trở lại thanh bình.
- Xem túi ông có truyền đơn địch không đấy?
Tôi cười khà khà:
- Đây là C1, H19 có phải không đồng chí?
- Đúng, anh là Hay đi viện về có phải không ạ?
- Ờ, đi K50 về.
- Em nghe tên anh hồi còn ở đơn vị, nay mới gặp. Vào đây anh, mình đây rồi. Em là Lê Kháng Địch.
Bộ phận C1 còn trên dưới chục người chỉ có Vũ Lương và Duy Hưng là cũ, còn lại toàn mới chưa quen.
Cậu quát tôi, tự giới thiệu là Lê Kháng Địch ở 128C Đại La, Hà Nội.
Mà cũng hay, chiều đó, tối đó im ắng. Tiếp đến các ngày sau vẫn im. Không biết thằng địch nó sờ đến vùng nào của Campuchia mà tạm buông tha vùng này khá lâu.
Tôi được thể nói phét:
- Các cậu có thấy không? Tớ bảo tớ là “Sứ giả hòa bình” mà lỵ.
Bên này khác chỗ anh Liễu, anh em vẫn sinh hoạt bình thường. Vẫn ăn tập trung, vẫn trà lá, tú lơ khơ, cờ tướng. Ngầm hiểu, Lương là phó chỉ huy phụ trách hậu cần. Lương phân công anh em ra trảng, ra suối bắt cá nấu canh chua cải thiện. Ăn mãi cá khô, thịt hộp, ruốc bông, mắm kem, đậu phộng cũng chán. Vào phum sóc lùng con “sà ke tích tích” (con chó nhỏ nhỏ), con “mon thum thum” (con gà to to) để cải thiện.
Tối không dám đi săn vì B57 hay choảng về đêm. Tuy vậy nằm đây trên dưới chục ngày chờ xe lên đón cũng sốt ruột lắm chứ! Nhất là anh Tạo, còn mình vô sừng sẹo lo quái gì, trúng thì chết, không trúng thì “cuộc đời vẫn đẹp sao”.
Mãi đến chiều 28 tháng 4 năm 1973, anh Tạo mới huy động anh em bốc vác gạo, khí tài, lợn gà lên xe để sáng mai đi sớm. Mang một số lợn nái, gà về đất Việt Nam gây giống. Chiều đó bốn chiếc Zin ba cầu mới tinh lên đón chúng tôi. Mỗi xe hai xế, ăn xong cơm chiều họ ra xe ngủ. Sáng 29, cơm nước sớm để xuất phát, càng sớm giờ nào hay giờ ấy, chứ ở đây như ngồi trên lò lửa.
Anh Tạo phân công: “Tôi ngồi xe đầu, đồng chí Lương ngồi xe thứ hai, đồng chí Hưng ngồi xe thứ ba, đồng chí Hay ngồi xe thứ tư. Tôi trưởng đoàn, đồng chí Hay phó đoàn. Sáu giờ ba mươi phút xuất phát”. Ba xe đi suôn sẻ, đến xe tôi, thế quái nào xế lái một bánh đâm vào cái cây mục đổ nằm bẹp dưới đất từ bao giờ. Nó mục ở ngoài thôi, lõi chắc lắm. Cứ như là cọc của Ngô Quyền đóng trên sông Bạch Đằng ấy. Thủng cả lốp lẫn săm. Hai xế lại thay bánh dự trữ. Lòng tôi nóng như lửa đốt. Xe có ba người, ngồi trên thùng là tôi và hai học viên mới về. Toàn bộ lợn gà để xe này, và ít gạo. Trong lúc thay bánh xe, tôi ngồi không yên, xuống đi đi lại lại quanh đấy. Đồng chí lái xe người Tày Cao Bằng gọi tôi lên xe. Tôi hỏi:
- Xong rồi à?
- Vâng ạ.
- Còn bơm cơ mà.
- Bơm rồi ạ. Thì ra nổ máy bơm tự động.
Khoảng tám, chín giờ, qua một con sông, chẳng biết là sông gì, bỏ ngầm đá, xe đi được, chỗ sâu chỉ ngập nửa bánh. Xế bảo chúng tôi xuống xe qua trước. Xe còn đỗ lại ẩn nấp. Lên bờ bên kia chờ đợi. Xe từ từ bò xuống sông đi qua gần tới giữa. Chiếc OV10 ập đến, tới đỉnh đầu nó vòng lại. Tôi bảo hai cậu chạy đi. Tôi đứng vừa la hét, vừa ra hiệu cho xe dừng lại. Phụ lái ngó hẳn đầu ra ngoài ca-bin ra hiệu cho tôi chạy đi. Tôi chạy thục mạng theo hai đồng chí chạy trước. Vài phút thì cũng gặp cả ba xe nghỉ ở phía trước, xe của tôi thứ tư cũng đến nơi. Hai xế xe tôi xuống ca-bin nói: “Anh ra hiệu dừng lại ở giữa sông không được, nó phát hiện được nó gọi phản lực lên thì xe mình đi đời, còn đứng giữa sông nó đánh chết toi. OV10 quá đầu mình vòng lại mới là lúc nó quan sát chỗ mình”. Đúng là OV10 bay đến đầu vòng lại rồi đi luôn. “Hôm kia sang đón các anh, trên Lộ Đỏ bụi mù, OV10 lảng vảng theo dõi. Khi chúng em qua biên giới nó ập đến bắn điểm. Gọi phản lực đến đánh. Vào rừng le mỗi xe chạy một quãng, mất mục tiêu chúng đánh vu vơ rồi bỏ đi. Sau đó, chúng em phải chạy trong rừng le cháy”. - Các anh tiếp.
Đi trên Lộ 7, xe phóng vù vù. Tôi phân công hai cậu nhìn hai hướng. Thấy máy bay đập chân vào ca-bin báo hiệu để xế tạt vào rừng cao su trú ẩn. Nhưng đoạn trên Lộ 7 an toàn, không lần nào phải trốn. 
Anh Tạo cho nghỉ ở Mi Mốt, xe tôi ở nhờ nhà tầng của Hoa kiều. Xẩm tối, Thính cùng hai đồng chí nữa đi công tác biết tin đến chỗ tôi chơi. Thính mới bổ sung đi công tác tháng nay. 
Ở đó, tôi lại phải tổ chức thanh lý con lợn sề to nhất đem về làm giống sắp chết. Thịt ra ướp muối cho vào thùng đem về đơn vị làm thực phẩm. 
Sáng 30 tháng 4 năm 1973 rời Mi Mốt, đi một giờ nữa là vượt biên giới về đất Việt Nam. Thế là hai năm bảy tháng “tản cư” trên đất Chùa Tháp, nay lại “hồi cư”. Đi trên Lộ Đỏ, xe chạy thoải mái chẳng sợ máy bay nữa, thở phào. Đến một ngã ba xe quặt phải, đi vào đường đất trắng bạc màu gọi là Lộ Trắng. Đi độ ba mươi phút gặp cái suối nước trong xanh có đập đá. Anh Tạo cho nghỉ ở đây, thịt mấy con gà, thổi cơm ăn mừng thoát chết. Về đơn vị là một giờ chiều. Đơn vị cử anh em bốc dỡ hàng cho vào kho. Số anh em mới về tắm giặt nghỉ ngơi. Bốn Zin quay lại Lộ Đỏ về Phòng 3. 
Chiều ấy đơn vị nhộn nhịp, chuẩn bị cho ngày mai 1 - 5 Quốc tế lao động. 

                                                    * * * 

Sau 1 - 5 - 1973, H19 lên cấp Nhà trường, Phòng 3 lên cấp Bộ Tư lệnh Thông tin B2. Tương đương sư đoàn do Đại tá Nguyễn Xuân Thăng làm tư lệnh kiêm chính ủy. Dưới là phòng tham mưu, phòng chính trị, phòng hậu cần, dưới phòng là ban. 
H19 lên cấp nhà trường, dưới là các ban, khoa như ban giáo vụ, ban chính trị, ban hậu cần, ban hành chính quản trị, khoa giáo viên. Số trợ lý bậu sậu thì nhiều. 
Đại bản doanh nhà trường là ở khu vực suối bà Chiêm, gọi là Ngã tư Xe tăng cháy vì chỗ ngã tư đó có cái xe tăng cháy. Đi hướng Nam tới sông Bà Hảo. Đi hướng Tây độ ngót cây số qua Cầu 19 tháng 5 về núi Bà Đen đi Tây Ninh. Đi hướng Đông độ hơn cây số là núi Ông, núi Cậu, qua cầu Bưng Bàn hay còn gọi là cầu Võ Tùng đi hướng Nam là đến Sở cao su Dầu Tiếng. 
Tổ giáo viên cơ công được biên chế về nhà trường, không ở C1 nữa. Khoa giáo viên gồm tổ giáo viên cơ công, tổ giáo viên báo vụ, tổ sửa chữa máy vô tuyến điện. 
Tổ giáo viên cơ công giờ bổ sung thêm Nguyễn Văn Đường, anh ở thị xã Thái Nguyên, gốc ở Ninh Bình. Mới từ Bắc vào, đã rút ngay về tổ giáo viên chuyên phụ trách lớp tập huấn gồm các chủ nhiệm thông tin của sư đoàn, trung đoàn. 
Học viên khóa 4 đã đông, bắt đầu đi vào huấn luyện. 
Anh Nguyên Như Thoan, cán bộ ở Bắc mới vào làm đại đội trưởng. Anh Đào Chắt làm chính trị viên. Tổ giáo viên cơ công thay phiên nhau xuống C1 giảng dạy. Ăn ở tại nhà khách đại đội. 
Từ giữa 1973 đến giữa 1975 chúng tôi gặp khó khăn về hậu cần, ăn chế độ bốn lạng rưỡi một ngày. Trên giải thích là phải cắt tiêu chuẩn của quân đội trợ giúp cho một triệu đồng bào vùng giải phóng. Sau ký Paris đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ít ác liệt nhưng thiếu thốn lương thực. Đơn vị mở hết chiến dịch nọ đến chiến dịch kia tăng gia sản xuất, ngô, khoai, sắn, lúa, rau… Trong tiêu chuẩn bốn lạng rưỡi lương thực nhưng không chỉ gạo mà trong đó có cả độn ngô, độn khoai, độn sắn, độn lạc… 
Đói quá có hôm tôi và Lương đi cắt cỏ tranh về lợp nhà, cắt xong bó gọn mà Việt đói, không gánh về được. Lại nhớ hôm đi qua bãi khoai lang cách đó vào 500 mét, hai chúng tôi đến đào được mấy củ bằng ngón chân cái, đốt lửa nướng, ăn xong mới về được. 
Đất ở vùng này bạc màu, chua, phèn, xấu lắm. Rẫy ngô của D bộ trồng từ tháng 5, khi mới ở Campuchia về mà đến tháng 10 mới thu hoạch, rẫy cũng rộng chừng nửa héc-ta, thế mà chỉ được mỗi bữa ngô luộc. Bắp được vài hạt, bắp chẳng có hạt nào. 
Trong doanh trại, trồng bầu, bí, mướp quanh nhà, bón đổ phân tro vào mới thu hoạch được. Anh em dùng những ống đựng đạn pháo của địch làm ống đựng phân, nước giải tưới rau. Chiều đến các bộ phận nườm nượp đi tăng gia. 
Đơn vị có con lợn ba mươi cân móc, thịt ra lợn gạo, y tá không cho ăn. Nhà bếp tiếc mang làm mắm, mắm ngấu, y tá không cho nấu, phải đổ đi. Tôi và anh Tạo khiêng ra khóm bầu, cách nhà vào 200 mét để bón. 
Thời gian sau dàn bầu lên xanh tốt lạ thường. Cái giàn đã làm khoảng trăm mét ca-rê mà ngọn của nó cứ thuồi ra. Cây và le đẵn sẵn lấy nối ra, ngọn dài đến đâu nối đến đấy. Cuối cùng dàn bầu rộng đến một sào Bắc bộ, tức là 360 mét ca-rê. Chẳng biết tổ giáo viên đã ăn độn bao nhiêu cân, nhưng nộp cho nhà bếp bốn tạ, thù lao cho 800 đồng. Mua được bốn cân bột giặt Vi-sô. Mà phụ cấp của sĩ quan sơ cấp Quân giải phóng là năm trăm đồng miền Nam một tháng. 
Tiểu đoàn, bây giờ gọi là nhà trường phải lập trại tăng gia tận Kà Tum, cách một ngày đi bộ. Sản xuất lúa gạo có đội tăng gia chuyên trách vào 20 người, có cả trâu bò, cày bừa, nông cụ. Các đại đội cũng có rẫy sẵn ở đó. Còn đất ở khu vực gần đơn vị xấu lắm, trồng không được. 
Tôi chỉ huy anh em đi làm sắn trên Kà Tum. Thái phơi khô đóng bao tải, xe chở về ăn độn. 
Thời kỳ làm sắn khô, bộ phận này được ăn no. Sáng ăn sắn luộc, trưa cơm, chiều cơm, đêm làm nồi sắn luộc chấm muối chấp ớt. 
Tháng chín năm 1973 có giờ giảng dạy ở C1, tôi khoác bồng đến ăn ở tại nhà khách đại đội. Mấy hôm trước anh chính trị viên nhà trường giao cho làm chủ hôn một đám cưới. Anh chị trước đây cùng đơn vị, xong anh đi làm Chủ nhiệm thông tin trung đoàn nay về đây tập huấn, có điều kiện tổ chức cưới nhau. Trong thời gian xa nhau mấy năm ấy, nhiều người ngỏ ý dạm hỏi, chị không ưng nên đám cưới anh chị chọn chủ hôn hơi khó. Ban giám hiệu chọn tôi làm chủ hôn. Soạn bài diễn văn “nghinh hôn”, rà đi soát lại, chắt lọc từng câu, từng chữ để khỏi sơ suất. Vì ngoài anh em trong đơn vị gọi là nhà trường, toàn dạng có học thức ra, còn ngót một trăm các quý chủ nhiệm thông tin trung đoàn, sư đoàn, phân khu, và các phái viên của Bộ Thông tin B2 nữa. 
Theo kế hoạch của chính trị viên nhà trường là bảy giờ tối bắt đầu. Chiều ấy mưa to như trút nước. Năm giờ chiều vẫn chưa thấy tôi ở C1 về, phái Lương đi gọi. Đang hướng dẫn học viên tự tu, Lương ngó cổ vào nhà, người ướt như chuột, quát tôi giật cả mình: 
- Ông Hay, ông nhận làm chủ hôn cho đám cưới, giờ này ông vẫn chưa về? 
- Bảy giờ cơ mà! Giờ là 5 giờ 40 phút. Đi bộ độ 6 giờ 10 là có mặt ở nhà, còn 50 phút tha hồ đàng hoàng. 
Lần đầu tiên làm chủ hôn đám cưới, thế cũng làm được. Nhiều chỗ trong diễn văn “nghinh hôn” cả hội trường người dự vỗ tay tán thưởng. Thế mới chết chứ, tín nhiệm, các đám cưới sau này chủ hôn lại “ông Hay”. Như cô Hồng “Lác” lấy anh Võ Tỷ… 
Anh Vương Thiên Uy là giáo viên ở tổ giáo viên báo vụ, hay gắn bó với tổ giáo viên cơ công chúng tôi. Anh phục tổ chúng tôi, toàn người nói năng chững chạc. 
Ai cũng gọi là Uy “Kỳ cục”, người ta gọi cũng có lý. Cái kỳ cục thứ nhất là: cuối 1972 mới vào Nam. Tắm ở suối mặc xà lỏn, cởi trần, vẫn đội mũ đeo sao. Anh em hỏi, anh trả lời: “Để cấp trên đến còn chào!”. 
Cái kỳ cục thứ hai là: Cuối 1973 anh vẫn giữ nguyên si các thứ ở Bắc đem vào như ba lô cóc, võng ka-ki Tiệp, ni-lon tăng ngoài Bắc, mũ cối, giày vải cao cổ… Anh em góp ý, anh trả lời: “Tiêu chuẩn mình là không được đi B. Vì thiếu một sĩ quan lên phép muộn mới líp mình vào. Cho nên quân tư trang không được cấp mà ký mượn quân nhu. Từng cái đã tính ra tiền. Mất thứ gì là trừ tiền thứ ấy. Ví dụ mất bộ ka-ki Tô Châu trừ 20 đồng, cho nên phải giữ cẩn thận, ra Bắc trả quân nhu”. Anh em bảo: “Bị lừa rồi ông Uy ơi, đời thủơ nào lại mượn”. Anh khăng khăng không nghe. Số sĩ quan ở Bắc chỉ dẫn quân vào giao xong ra Bắc. Đợt này chiến trường cần, xin trên cho ở lại làm phục vụ, công tác. 
Cái kỳ cục thứ ba là: Dạo tiếp quản Vũng Tàu, ở Trường Truyền tin của Ngụy. Nước ăn ở đó có vấn đề, nên cả đơn vị bị kiết lị. Anh thủ cái nhiệt kế bách phân, chuyên dùng đo nước mời khách. Ví dụ, có người đến chơi, anh mở nắp phích ra đưa nhiệt kế vào đo, rồi đưa cho khách xem mà rằng: báo cáo anh, nước tôi đủ trăm độ, đau bụng đi ngoài không tại nước tôi đâu nhé!
Cái kỳ cục thứ tư là: Anh làm chính trị viên đại đội, sắm cái máy ghi băng chuyên dùng, để phục vụ cho công tác. Lại ví dụ: lần này sinh hoạt đại đội xong, anh báo trước là lần sau sinh hoạt một giờ chẳng hạn. Anh soạn nội dung sinh hoạt, tự trình bày trước cát-sét, xong căn đồng hồ mở băng nghe. Sẽ xảy ra ba trường hợp: Nếu đúng một giờ thì thôi, chưa đến một giờ thì thêm ý vào cho đủ, quá một giờ thì cắt xén phần nào đấy đi để làm vừa một giờ.
Cái kỳ cục thứ năm là: Có hai học viên trốn học, chuyên đến nhà chính trị viên Uy nương náu. Cứ vào giờ học, đến ngồi chơi uống nước. Anh Uy pha nước chanh đường cho uống, pha mì tôm cho ăn. Một điều gọi các cậu là “thầy giáo”, hai điều “thầy giáo”. Chỗ thân tình từ trên chiến khu, tôi hay lui tới chỗ anh chơi lúc rảnh rỗi. Thấy cảnh đó diễn ra lâu, tôi góp ý, anh còn bao biện:
Muốn sang phải bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
Hai cậu cứ đinh ninh giờ này đại đội trưởng còn theo dõi học sinh trên lớp. Không ngờ giờ đó đại đội trưởng đến nhà chính trị viên. Hai cậu thấy thế phá ra chạy. Anh Uy vỡ lẽ là tiếp nhầm học trò trốn học!
Cuối 1973, như đã nói ở trên là chiến dịch rẫy. Nhà trường lập xưởng rèn, anh Uy có tay nghề thợ cơ khí trước khi nhập ngũ, chọn anh làm thợ cả. Xưởng chuyên rèn cuốc, xẻng, dao quắm, liềm, hái… Tóm lại là sản xuất và sửa chữa nông cụ. Hôm buổi trưa, anh tới rủ tôi đi xem quả bom bảy tấn thối, cách không xa. Hôm nay chúng tôi mới tận mắt nhìn, tận tay sờ cái vỏ quả bom bảy tấn. Công binh ta đã tháo hết, còn vỏ không, nằm chềnh ềnh trên bãi le ngay cửa rừng từ Lộ Trắng vào hiệu bộ. Giống như hai cái lọ thuốc Pê-ni-xi-lin ghép chôn lại với nhau. Hai miệng vỏ quả bom giống như hai miệng lọ thuốc. Đường kính phải đến năm, sáu mươi phân dài cỡ hơn mét. Địch dùng C130 thả bằng dù. Mà dù thả bom bảy tấn, không như dù thả người, thả hàng. Nó là những mảnh dù dày như thắt lưng Mỹ, bản to như ba bốn ngón tay, may lại như võng đay. Ở giữa quả bom có cái đai đeo bằng thép trắng tinh. Anh Uy tháo béng mang về. Tôi giữ cho anh rút dao găm ra xẻo mỗi người một mảnh dù dài một sải về làm dây lưng.
Đã nghe bom bảy tấn từ lâu. Công dụng của nó là đánh vào rừng rậm, nghi là cơ quan của ta đóng ở đó, phát quang một bãi trống rộng, để HU1A đổ quân tức khắc.
Quả này thối, chúng dùng phản lực đánh mấy quả kích cho nổ, nó vẫn câm. Công binh tháo lấy thuốc ra, mới còn cái vỏ, chúng tôi được xem hôm nay. Giữa năm 1970, nó có đánh ở ngã ba Đầm Be. Cách xa bộ phận tôi đi công tác lẻ hôm ấy mấy cây số mà còn ngã ngửa người ra. Khoảng 1971, 1972 chỉnh huấn chính trị, nghe cấp trên phổ biến loại bom CBU, một quả hủy diệt diện tích tám nghìn mét vuông với chiều cao hai mét. Như vậy hủy diệt một thể tích 16.000 mét khối. Chúng mới đánh được ít nơi thì 10 lính đặc công thủy, thiêu hủy hết trong đêm 12 - 12 - 1972 ở kho Thành Tuy Hạ. Bom CBU bấy giờ chỉ kém bom H, bom A và bom N mà thôi.
Cái đai bom bằng thép trắng không rỉ ấy, sẵn có tay nghề rèn, anh Uy chặt một khúc rèn con dao găm sắc như nước, cạo lông chân đi soàn soạt. May một cái bao da đựng nó, lúc nào cũng dắt vào dây lưng con, trừ lúc đi ngủ cởi quần dài mới bỏ ra.
Sau kí Pa-ri, di chuyển từ Ô Cà Môn về đây lại bị đắm mất xà-lan năm tấn gạo ở Mê Kông, đoạn giữa Bến Kết ngược Bưng Dồn. Năm đồng chí áp tải hàng, xà-lan đắm, ba người bơi lạc hướng bị chết đuối, đón dưới dòng, mấy ngày sau mới vớt được xác lên chôn cất. Hai đồng chí bơi đúng hướng, là cậu Tuấn con trung tá Phụng tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc và cậu Chính gốc Ninh Bình, cứ trú ở Gia Lâm. Tuấn là cơ công ở Bắc vào, biên chế ở tổ sửa chữa trên nhà trường, thuộc khoa giáo viên. Tuấn thoát chết về kể lại với chúng tôi: “Người ta bảo Hồng Hà mênh mông, chứ Mê Kông không kém các anh ạ. Em bơi đúng hướng mà vẫn đuối sức. Hết bơi sấp lại nghiêng, hết nghiêng lại ngửa. Đuối sức quá ngửa mặt nhìn trời lần cuối cùng để chết, thì chân chạm đất. Em sướng quá”.
H19 lên cấp nhà trường, không biết là tương đương cấp gì, trên ký chưa ráo mực thì nó đã teo đi. Mà teo đi là đúng, vì hiệp định Pa-ri được ký kết, đường đi vào Nam dễ dàng, trước kia chúng tôi đi bốn tháng rưỡi, tụt tạt như tôi nằm các viện, chín tháng mới đến nơi. Bây giờ đi có mười ngày. Xe đưa các cậu vào chiến trường, quần áo ka-ki Tô Châu, mũ cối, dép râu vẫn mới. Chúng tôi tiếp các cậu ở hội trường, cậu nào cũng trắng trẻo, đẹp trai.
Nhà trường H19 lúc này, các anh như anh Chuyên, anh Thể, anh Đạm, anh Liễu... Nói chung là già yếu được ra Bắc. Các sĩ quan trẻ có năng lực thì ở Bộ Tư lệnh Thông tin B2 hoặc xuống các đại đội. D bộ lúc này gọn nhẹ, có chỉ huy và trợ lý; các chị em có con nhỏ; số ốm yếu thu dung chờ chuyến ra Bắc. Người ăn thì nhiều, người làm thì ít. Các đại đội tăng gia khá hơn, săn bắn khá hơn, họ được cải thiện luôn. Họa có đại đội bắn được con nai trên tạ ăn không hết cho D bộ một đùi, nhà bếp kho mặn ăn dè.
Khoảng tháng 12 năm 1973, tôi được điều sang làm trợ lý chính trị. D bộ năm nay ăn tết kém các đại đội.
Khóa 4 cơ công của C1 ăn tết xong là ra trường. Tuy là trợ lý chính trị, trước là giáo viên nhưng đôi khi bắn được con hoẵng, con nhím cũng đánh “dây thép” lên báo tôi đến cải thiện. Thôi thì “chẳng có, đầu gối phải bò”, bốn mươi phút cũng một mình xách đèn bão đi. Đúng kiểu “Ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng”, cũng phải cam chịu chớ sao.
Hôm đón giao thừa, liên hoan bánh kẹo và văn nghệ ở D bộ xong là một giờ đêm. Tôi là trợ lý chính trị, phải chủ trì công việc ấy. Tôi xách đèn bão, thủng thẳng đi C1. Trời tối phải đi hết năm mươi phút. Gần hai giờ mới đến nơi. Cả đơn vị mới đi ngủ. Còn một hai nhà thức. Đi qua một nhà thấy cậu Sửu nằm võng ngủ. Tôi lấy đôi dép đúc đút ngay vào khóm le ria nhà, rồi lên nhà đại đội. Đại đội trưởng Tạo mời tôi ăn tết, rồi ngồi xem anh em đánh cờ tướng, tú lơ khơ. Chừng ba mươi phút, Sửu choàng dậy kêu ầm ĩ. Cả đơn vị kéo đến, mang cả vũ khí, tưởng là biệt kích đột nhập. Hóa ra Sửu nằm mơ cọp vồ, và cứ loay hoay tìm đôi dép đúc. Mọi người nhận định là biệt kích đột nhập thật, vì nó lấy đi mất đôi dép. Ở nhà bên tôi chạy sang, rút đôi dép đúc trong búi le ra, anh em mới tin là Sửu mơ thật.
Lại nhớ cái dạo anh Thoa vẫn còn làm đại đội trưởng, tôi xuống C1 lên lớp. Đêm nằm ngủ mơ, nói một tràng tiếng Tây thật to. Anh Thoa chạy đến thì hóa ra tôi mơ. Thắp ăng-côn ngồi nói chuyện, anh hỏi:
- Anh biết tiếng Tây à?
- Không.
- Thế mơ gì mà nói to thế vậy?
- Tôi nằm mơ, chỉ huy một đoàn thiết giáp, duyệt binh ở Hồng Trường. Đứng trên com-măng-ca mui trần. Giơ tay chào Đại nguyên soái Xít-ta-lin. Đoàn chiến xa đó đi thẳng ra mặt trận đánh nhau với chiến xa phát xít Đức. Sau khi chiến thắng, tôi đi Pa-ri diễn thuyết.
Lúc đấy, tự nhiên thấy đau nhói ở sườn. Tỉnh dậy hóa ra Sửu huých vào đánh thức. Mình vẫn trơ trọi nằm trên võng ni-lon trong một gian nhà không vách lợp lá trung quân, ở đất huyện Tân Biên, Tây Ninh, miền Đông Nam bộ Việt Nam.

                                                     * * *

Ăn tết Giáp Dần 1974 xong, khoảng mùng 10 tháng Giêng Âm lịch, C1 liên hoan cho anh em khóa 4 ra trường về đơn vị công tác.
Tôi chỉ huy 20 anh em đi làm rẫy D bộ hai mươi ngày. Ở cạnh Cầu 19 tháng 5. Cách một giờ đi bộ, cách C1 vào 20 phút. Anh em mang tăng võng, nồi xoong, gạo, thực phẩm đủ ăn trong hai mươi ngày. Tầm chín giờ sáng qua cổng C1. Tôi bảo anh em để gọn đồ đạc vào ria rừng, để người qua lại không vướng. Rồi cầm đầu bước vào C1 chơi. Anh Đào Chắt làm chính trị viên, quê vùng cam Bố Hạ, hỏi:
- Các tướng đi đâu thế?
Tôi đáp:
- Toàn lính tráng đi làm rẫy, chẳng ai là tướng cả. Thấy C1 liên hoan kéo vào nhậu bậy chơi!
- Tốt, tốt thế mới chân tình.
Mời chúng tôi uống trà xong, tay xách can 20 lít bảo:
- Thì đi xuống nhà ăn!
Tại nhà ăn, anh Đào Chắt nói:
- Có giấy mời thầy, thầy... mà thầy không xuống.
- Thì chả kéo 20 lính đi hộ tống là gì?
- Chiều qua tiếp khách. Sáng nay liên hoan nội bộ có thế, thế... nào dùng ấy.
Chúng tôi xúm vào ba mâm tiệc. Rượu say cơm no. Ra rẫy mắc võng ngủ, tầm ba giờ chiều dậy, gọi là phát rẫy lấy lệ.
Làm rẫy 20 ngày xong về D bộ, được phân công xuống C4 lên lớp cho học sinh báo vụ mới tựu trường, bài: Bản chất và truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vừa xuống C4 lúc trưa thì chiều anh Xuân gọi điện về làm công tác tử sĩ. Anh Cự quê Hà Bắc vừa hy sinh. Anh Cự vào chiến trường từ 1962, 1963. Hơn chục năm dưới đồng bằng ác liệt. Nay ký Paris anh được chuyển lên chiến khu công tác cùng với anh Độ, anh Ngân. Cấp bậc trung đội bậc trưởng, chức B trưởng một B của C2. Chỗ anh Uy làm chính trị viên, Hoàng Anh làm đại đội trưởng.
Thấy hố bom ngoài trảng cạnh đơn vị, có vết chân bò, nai hoẵng, anh gài mìn bẫy. Gài xong leo lên dốc sườn bò, sỏi đầu ruồi làm anh trượt chân đạp vào dây mìn, chết tại chỗ.

                                                  * * *

Hôm 28 tết Ất Mão 1975, anh Xuân phái tôi đi chúc tết bảy bệnh nhân đang nằm viện, mang bảy cân kẹo bánh, cây A-ra và tám gói chè. Anh em ra viện hết, chỉ còn mẹ con cô Hồng. Chỉ huy viện cũng bận các đơn vị họ đến chúc tết. Thế là trút cho mẹ con cô số bánh kẹo ăn tết. Còn mang cây A-ra, tám gói chè về.
Cháu Việt Hà được gần hai tuổi, bố cháu là anh Đỗ Văn Thành cùng Đoàn 239 với tôi nhà ở Triệu Việt Vương, Hà Nội, nên bố mẹ mới đặt tên con là Việt Hà nghĩa là phố Triệu Việt Vương, Hà Nội. Được, được đấy, có nghĩa!
Anh Thành yêu cô Hồng cỡ từ năm 1971. Không biết là chủ trương của cấp nào mà không cho lính Bắc lấy vợ. Cho nên đơn vị không cho anh chị lấy nhau. Cô sinh cháu, mỗi người lĩnh cái kỷ luật cảnh cáo. Anh Thành còn kéo dài thời kỳ dự bị đảng sáu tháng.
Khi tôi từ viện về ngang đường, tôi gặp Thành, đầu trần đạp xe hớt hải vào viện thăm vợ con. Chẳng cần nói gì đã hiểu nhau, dựa xe đạp nghỉ.
- Mẹ con nó nằm lán nào hả ảnh?
- Lán làm gì có số, cứ vào đó hỏi họ chỉ cho, độ 15, 20 phút nữa là tới.
Bấy giờ đơn vị họ kiểm soát tới mức ngặt nghèo. Về đến đơn vị, những người có chức trách hỏi tôi:
- Có gặp Thành vào viện không? Tôi nói dối là không gặp.
Họ tìm túi bụi, điện đi các đại đội, các trung đội biệt lập và các bộ phận để hỏi.
Tối hôm 28 đó Thành phải làm kiểm điểm để ngày mai thông qua hội nghị liên tịch gồm tổ giáo viên cơ công, tổ sửa chữa máy thuộc khoa giáo viên của nhà trường. Tối 29 tết, chúng tôi lại phải ngồi họp.
Bên này suối là tổ giáo viên và tổ sửa chữa vô tuyến điện, bên kia là trạm xá. Nhà mẹ con cô Hồng lại ở ria suối. Cách chỗ chúng tôi chỉ 15, 20 mét. Đêm đêm cháu Việt Hà khóc, có lần khóc xa xả như xé vải, chúng tôi còn sót ruột huống chi là Thành.
Sống nuôi con đã vất vả, cơ cực, huống hồ, cô Hồng một đèn một bóng trong căn nhà bốn bề không vách nơi ven suối rừng thì vất vả, cơ cực đến dường nào. Đêm khuya thanh vắng, nước suối róc rách, điểm tiếng cú kêu thật não ruột.
Bố gặp con, vợ chồng gặp nhau phải lén lút chứ đâu có đàng hoàng.
Cuối 1974, cô Hồng mang bầu đứa thứ hai, anh Xuân giao tôi nhiệm vụ đến cơ quan huyện Tân Biên nói với gia đình là: “Đơn vị không cho anh chị lấy nhau”. Đạp xe từ sớm, 11 giờ đến huyện gặp cụ thân sinh cô Hồng, bấy giờ làm Trưởng phòng lương thực huyện ở vùng giải phóng. Cụ tiếp tôi niềm nở, hỏi thăm quê quán, gia cảnh. Xong hỏi thăm tình hình Thành.
Cơm nước xong, một giờ chiều đạp xe về. Tối đến báo cáo anh Xuân, tình hình chuyến công cán.
- Báo cáo anh, đến nơi ông hỏi thăm tình hình Thành như là con rể rồi. Anh giao cho tôi nói rõ với gia đình như vậy, không nỡ nói ra!
Anh Xuân chẳng nói gì! Ngồi một lát, tôi cáo từ. Mà sao anh không nói một câu để xem ý ra sao về chuyến công cán của tôi.
Hai hôm sau, tức là họp Đảng ủy và chỉ huy nhà trường xong. Hai người nhận được quyết định lấy nhau.
Cả Hiệu bộ chiều ấy như có luồng sinh khí mới. Lập tức, tốp chặt cây, tốp cắt cỏ tranh, tốp cưa cắt, đục đẽo... Tầm năm, sáu giờ tối, ngôi nhà xinh xinh một gian hai chái đã xong. Ở ngay cạnh tổ sửa chữa vô tuyến điện. Anh em trêu đùa, cô Hồng đáp lại:
- “Thuyền theo lái, gái theo chồng” mà mấy anh!
Hai vợ chồng Thành và cháu Việt Hà được sum vầy, ấm cúng.
Tối đến, anh em cả Hiệu bộ đến chơi, từ anh Tân, anh Xuân là người chỉ huy cao nhất cho đến liên lạc, gác cổng là người có cương vị thấp nhất đều lần lượt đến chúc mừng vợ chồng Thành. Ăn chè, uống trà, hút thuốc lá A-ra.
Đám cưới trong rừng chiến khu có một nồi chè, tút A-ra và gói chè Con Cọp.

                                                     * * *

Ăn tết Ất Mão 1975 xong, tôi lại cầm đầu tốp làm sắn khô ở Kà Tum. Ở cạnh trung đội độc lập do anh Nguyễn Văn Huệ ở Hội Xá, Gia Lâm làm trung đội trưởng. Anh Đông làm B phó. Tôi và anh Huệ đồng hương Hà Nội, quen biết và thân thiện từ 1969, bấy giờ làm trợ lý khí tài. Giờ làm sắn khô, gần anh, buổi tối đến chơi, nói chuyện. Làm được vài hôm thì anh Lê Chí Nguyện lên thay, tôi về gấp công tác. Bấy giờ chỉ thượng tuần tháng ba Dương lịch 1975, Âm lịch chỉ hạ tuần tháng Giêng, qua dân Cà Tum vẫn còn không khí tết.
Khoác bồng về, tạt qua chỗ anh Huệ, anh hẹn cho tôi cặp gà giống. Anh bắt từ bao giờ, cho vào lồng buộc kỹ càng chỉ việc xách đi. Đôi gà cỡ hơn hai cân, xách mỏi tay. Để cái áo rách lót đít lồng, buộc trên nóc bồng khoác, dễ đi đỡ mỏi. Đi bộ cả ngày đường mà xách lồng gà hơn hai cân, ai mà xách được.
Về tới đơn vị thì chiều hôm sau đội chiếu bóng của Bộ tư lệnh về phục vụ bộ phim “Nghêu, sò, ốc, hến”. Anh em thì thích, mấy ông già cán bộ lầm bầm nói:
- Đang rầm rập vào chiến dịch, ta phải chiếu bộ phim chiến đấu, chứ lại mang “Nghêu, sò, ốc, hến” ra để chiếu. Văn hóa, văn nghệ phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của đảng chứ lỵ!
Tôi nghĩ bụng: Ờ, mấy ông già nói chí phải.
Nhà trường thông tin Miền mà chả có gì tiếp khách. Tôi thịt béng con gà giống anh Huệ cho để tiếp khách bốn cậu trung đội xi-nê-ma của Bộ. Còn một con sáng mai họ về Bộ tư lệnh thịt nốt.
Hôm sau sẵn ô tô của đội chiếu bóng, tôi cầm đầu đoàn đi dự Đại hội Chiến sĩ Thi đua của Nhà trường trên Bộ tư lệnh. Đoàn có ngót chục người, Chiến sĩ Thi đua có một, hai. Còn chủ yếu là đội bóng chuyền và “cây” văn nghệ.
Đến ngã ba Lộ Đỏ, rẽ phải về Lộc Ninh, đi được vài trăm mét, gặp một tốp năm, bảy đồng chí chắn xe xin đi nhờ. Tôi không cho, bảo xế: “Đi!”. Có một đồng chí trong tốp họ tức quá nói một câu: “Chúng ta khổ đau nhiều, mà không thương yêu nhau lắm!”
Suốt đường đi từ đó đến Bộ tư lệnh, và cả những ngày dự đại hội, câu đó cứ văng vẳng bên tai tôi. Tôi ân hận quá mà không chuộc lại được. Nhất là bài tổng kết đại hội của đại tá Tư lệnh kiêm chính ủy Nguyễn Xuân Thăng nói về “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, càng làm dậy trong tôi nỗi buồn canh cánh.
Đại hội gói trọn trong hai ngày xong. Tiện xe của Bộ tư lệnh đi công tác, đưa chúng tôi về tận H19.
Một hai hôm lại có lệnh chuẩn bị đón đồng chí Phạm Niên, Tư lệnh binh chủng Thông tin liên lạc ở Bắc vào thăm và kiểm tra. Tôi phải chuẩn bị băng cờ, khẩu hiệu, trang trí. Cái khoản khánh tiết, câu lạc bộ “cờ đèn kèn hoa” này tôi ngại ghê. May có anh Hùng chính trị viên phó nhà trường lo cho. Nó là sở trường của anh.
Vừa treo xong cái khẩu hiệu ở cửa hội trường “Nhiệt liệt chào mừng phái đoàn Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc vào thăm chiến trường B2” thì đồng chí Phạm Niên đã đến cửa hội trường. Đồng chí tư lệnh phát biểu ngắn gọn độ 10, 15 phút, xong về nhà khách làm việc riêng với chỉ huy, lãnh đạo nhà trường H19.
Một đồng chí cán bộ tuyên huấn nói chuyện thời sự với đông đảo anh em H19, D bộ và bốn đại đội. Chật ních hội trường và còn chủ yếu là đứng ở rừng quanh đó.
Không biết tên, quả anh nói hay thật, đúng là giọng tuyên huấn, nói con kiến trong lỗ cũng phải bò ra. 
Giải tán. Chiều nay nhà trường thịt lợn tiếp khách, khách ăn tiệc, anh em được ăn tươi. 
Tối đến, tốp 5, tốp 7 kéo đến thăm hỏi đồng chí tư lệnh và anh em trong đoàn. 
Trước khi đoàn xe của Bộ tư lệnh đến độ 10, 15 phút, anh Hồ Bắc - Nguyễn Tiến Diệm đã đến trước làm công tác tiền trạm. Sau đó mấy cái com-măng-ca đến. Làm tôi quýnh lên chuẩn bị. 
Tuy biết tên anh Bắc từ 1968, giờ mới gặp. Làm Chủ nhiệm thông tin của vùng Bà Rịa - Vũng Tàu. Ở đó bao năm ê ẩm, sau ký Paris, chuyển vùng lên chiến khu xả hơi. Chưa xếp công tác gì, cứ gọi là trợ lý của Bộ. Tuổi chưa cao, tóc bạc như cước, trông đạo mạo. Cấp hàm Đại úy, đi đâu người ta cứ tưởng là tướng. Vừa xuống cái Hon-đa 90, gặp tôi tay bắt mặt mừng cứ như là bạn nối khố lâu ngày gặp lại. Anh bắt tay tôi: 
- Cậu vẫn ở đây à? - Anh Bắc hỏi tôi. 
- Vâng, anh đi đâu? 
- Tớ dẫn phái đoàn Bắc vào kiểm tra. 
- Thế em phải chuẩn bị. 
- Xong chuyến công cán này, tớ về đây ở với cậu. 
- Được điếu đóm cho anh còn gì bằng. 

                                                * * * 

                      H19 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh 

Nhà trường H19 lúc này chỉ bằng nửa Tiểu đoàn H19 cũ. 
Anh Xuân chủ trì công tác đảng, công tác chính trị, đang trong tuần trăng mật với cô Tư Huệ, dược tá quê ở Bình Dương. 
Anh Hùng chính trị viên phó, người quá hiền lành, ít linh hoạt, bí dì. Anh lính chín năm tập kết ra Bắc chưa vợ. Hễ anh em tán lấy cô nào thì mặt đỏ tía tai. Ăn cơm không dám ngẩng lên. Thế mà tên là Hùng. Sở trường của anh là trang trí hội trường, cắt khẩu hiệu, dán khẩu hiệu nhanh mà đẹp. Anh toàn làm hộ tôi cái đó. Tôi thà chịu vác trăm cân leo núi chứ phải làm cái khẩu hiệu sợ ghê. 
Anh Tân hiệu trưởng, lo công tác huấn luyện. Giờ không huấn luyện, lo khí tài, trang bị cho anh em đi phía trước. 
Anh Thoa, phó hiệu trưởng kiêm tham mưu trưởng, lo công tác đời sống, hậu cần cho hiệu bộ. 
Còn tôi là trợ lý chính trị viên trường. 
Từ trung tuần tháng 3 năm 1975 công việc của nhà trường H19 tôi cáng đáng khá nhiều. Cái xe đạp Vĩnh-cửu trang bị cho là phương tiện đi lại lên Bộ tư lệnh. 
Nay trên điều một tiểu đội đi chiến dịch, mai điều trung đội, ngày kia điều cả đại đội. Tôi lo các thủ tục, nhất là giấy giới thiệu sinh hoạt đảng. Các giấy tờ khác thì làm chung cả tiểu đội, trung đội, đại đội được chứ giấy tờ giới thiệu sinh hoạt đảng, không thể làm chung được. Các cái khác thì liên lạc với Bộ tư lệnh bằng điện thoại được, chứ cả tập giấy giới thiệu sinh hoạt đảng không chuyển bằng điện thoại được, lại phải chuyển bằng xe Vĩnh-cửu. Hoặc mười suất quân trang đầy đủ từ đầu đến chân và cả ngang người nữa, của mười sĩ quan đi Quân quản chẳng hạn, không giao cho quân nhu lo mà lại giao cho chính trị lo mới chết chứ! 
Nhà trường H19 lúc vào chiến dịch khoảng 500 quân thì đảng viên cỡ 300 đến 350 đồng chí. 
Lệnh của Bộ tư lệnh là lúc nào cũng có người trực máy. 
Đầu tháng tư năm 1975, trên điều cả C1 đi phục vụ chiến đấu. Một nửa đi núi Bà Đen, một nửa đi núi Cậu. 
Và cũng đầu tháng tư 1975 khống chế mười sĩ quan có tên sau đây không được đi đâu xa. Đó là: Phạm Hữu Tạo, Vương Thiên Uy, Đào Chắt, Nguyễn Như Thoa, Nguyễn Viết Quyền, Hoàng Anh, Nguyễn Thế Huy, Nguyễn Văn Quang, Phạm Văn Huynh và Trịnh Viết Na. 
Đại đội 1 đi công tác tất. Đại đội trưởng Tạo và chính trị viên Chắt ở nhà với một liên lạc, ba nuôi quân nữ và mấy cháu nhỏ cũng chán. Lâu quá chưa thấy có việc gì nên anh Tạo đi núi Bà, anh Chắt đi núi Cậu thăm anh em. Nhiệm vụ của hai bộ phận này là tải gạo, tải nước cho anh em thông tin từ Bắc vào đang làm việc ở trên núi bận quá, nhiều việc đến nỗi không có thời gian tải gạo nước mà ăn mà uống. 
Tầm 11 giờ đêm ngày 25 tháng 4, nhận điện của Bộ tư lệnh báo là: 10 đồng chí sĩ quan trong danh sách khống chế. 12 giờ trưa 26 tháng 4 có mặt ở Bộ tư lệnh nhận nhiệm vụ. 
Như vậy là chỉ có 13 giờ đồng hồ từ khi nhận được điện, đến khi có mặt ở vị trí công tác. Cự li, đi bộ mất sáu giờ đồng hồ. Tôi điện báo cho các đơn vị: C2, C3, C4 trả lời sẵn sàng. Riêng C1 liên lạc Nguyễn Văn Ngôn báo lên là hai anh đi núi Bà, núi Cậu chưa về. 
Tôi lệnh ngắn gọn: “Lệnh chiến đấu, cho người đi gọi về ngay, ngay bây giờ!”. Tắt máy. 
Ngôn kéo cô Vấn cùng đi đến gặp tôi, lúc đó tôi đang nằm võng đu đưa trực điện thoại. Thỉnh thoảng C2, C3, C4 gọi lên mời liên hoan để mai các anh đi sớm. Riêng C2 gần nhất, anh Uy làm chính trị viên là chỗ thân thiện, kèo nài mà tôi chẳng dám đi. 
Ngôn trình bày: “Đơn vị mình em là nam, ba chị con nhỏ làm sao đi được?” 
- Đây là lệnh chiến đấu, năm giờ sáng mai có mặt để đi Bộ tư lệnh nhận nhiệm vụ. Hai anh ở dạng khống chế cơ mà, sao lại đi xa cách đêm? Thôi thế này: “Cậu đi núi Bà gọi anh Tạo về ngay, vừa đi vừa chạy vậy. Cô Vấn và cô Hưởng xuống C4 nhờ các anh ấy dẫn đi, hoặc chỉ đường cho đi núi Cậu gọi anh Chắt về ngay. Từ C4 đi núi Cậu chỉ một ki-lô-mét thôi. Đây xuống C4 hết 30 phút là cùng. Chỉ cách đó không còn cách nào khác”. 
Cô Vấn bảo: “Để chị Hưởng ở nhà cùng chị Kiều cho đỡ sợ. Hai má con em đi C4”. Khi ấy cháu Võ con cô Vấn mới lên tám, chín tuổi. 
Ngày 26 tháng 4, tôi dậy trước năm giờ. Xếp 10 ba lô con cóc mới tinh trên giường một. Trong đó có hai bộ Tô Châu, hai bộ đồ lót, một màn, một khăn mặt bông. Trên ba lô để một dây lưng Liên Xô dắt K54, bao đạn, bi-đông, dao găm. Trên cùng chụp cái mũ cối Trung Quốc, đính quân hiệu nửa đỏ, nửa xanh. Gầm giường để đôi dép đúc Trung Quốc. Suất của ai có đề tên ở miếng giấy bọc cây thuốc lá A-ra. 
Năm giờ kém, tám đồng chí đã có mặt ở chỗ tôi. Sổ tay đề từng người, ký nhận lĩnh 500 đồng tiền miền Nam bồi dưỡng. Tám đồng chí xuất phát lúc năm giờ ba mươi phút. Từ ấy ruột gan tôi vẫn bồn chồn về anh Tạo, anh Chắt. 
Tầm bảy giờ hai anh đến gặp tôi, mồ hôi nhễ nhại. Anh Chắt lắp bắp giọng cà lăm: “Chúng… chúng…” 
Tôi xua tay, miễn lý do. Nhớ hồi xem phim “Sư trưởng Sa-pa-ep” đầu năm 1970, tôi vận dụng luôn: “Vị trí của người chỉ huy, lúc này ở núi Cậu, núi Bà à?” 
Hai tân thiếu úy sợ cựu chuẩn úy lúc nên này mặt tái xanh! Ký lĩnh bồi dưỡng. Tay các anh ký, run cầm cập, biết là run lẽ khác, tôi cứ để xem sao. 
Tôi lệnh: “Đồng chí Đình và đống chí Tuyên, lai hai anh đi, khi nào gặp tốp trước quay lại. Tôi đã bố trí hai xe đạp Vĩnh-cửu tốt để lai đi”. 
Khi đó hai anh thở phào nhẹ nhõm. Anh Chắt nở nụ cười, đùa tôi: “Ngài điều binh như chuẩn tá chứ đếch phải chuẩn úy!”. 

                                                   * * * 

Ngày 27 - 4 -1975, cả đơn vị rầm rập chuẩn bị đi chiến dịch. 
Theo lệnh của Bộ Tư lệnh, tôi điều hết số còn lại của C2, C3, C4 đi chiến dịch. Số khung còn lại và những người ốm yếu dồn vào hiệu bộ. Riêng C1, đưa cả về hiệu bộ ngay hôm 27, bộ phận thông tin Bắc vào đã xuống núi, không dùng C1 phục vụ nữa. 
Ngày 29 - 4 - 1975, họp hiệu bộ ngắn gọn: 
Anh Đỗ Thanh Tân hiệu trưởng, thông qua danh sách đàn bà, trẻ con, số người ốm yếu ở lại do anh Tân “Điếc” chỉ huy. 
Số thu dung C2, C3, C4 và hiệu bộ biên chế thành một đại đội do anh Tân hiệu trưởng chỉ huy, anh Hùng làm chính trị viên.
Anh Thoa đi Quân quản. Anh Xuân thì Bộ tư lệnh trưng dụng chưa về. 
Đại đội anh Tân, anh Hùng chỉ huy thì đi hướng núi Bà, phát triển chiến dịch về hướng thị xã Tây Ninh. 
Đại đội C1, anh Long làm đại đội trưởng, tôi làm chính trị viên, thì đi hướng Dầu Tiếng, phát triển chiến dịch về Bến Cát, Củ Chi. 
Tối 29 - 4 - 1975, mới xong công việc của hiệu bộ, tôi và anh Long xuống C1 nhận nhiệm vụ. Họp đại đội cấp tốc đọc lệnh chiến đấu. Phổ biến lệnh của Bộ chỉ huy Miền khi vào thành phố. Đọc biên chế trung đội, đại đội, không có cấp phó. Anh Long dùng Ngôn làm liên lạc. Tôi dùng Đình làm liên lạc. Trang bị cho cán bộ đại đội một K54, một ống nhòm, một ra-đi-ô Na-ti-o-na Pa-na-sô-níc “mắt trâu”. 
Đình liên lạc chuyên khoác AK và ra-đi-ô cho tôi. Tôi tín nhiệm Đình vì cho rằng cậu ta thông minh, tháo vát, linh hoạt. Thời kì còn làm liên lạc cho hiệu trưởng Nguyễn Phú Chuyên, hay ngồi ăn cơm cùng mâm với tôi, cậu kể: “Chuyển từ Campuchia về đây. H19 chưa biết Bộ tư lệnh ở đâu. Giao cho em một tuần tìm bắt liên lạc với Bộ tư lệnh. Em cứ định hướng cắt rừng đi, ngày thứ hai cắt đúng vào nhà bếp Phòng hậu cần Bộ tư lệnh. Nghỉ ngơi, hôm sau đi gần một ngày là về đơn vị”. 

                                                       * * * 

4 giờ sáng 30 - 4 - 1975 lệnh xuất phát đi chiến dịch. C bộ có năm người là tôi, anh Long, Ngôn, Đình và Chung y tá. Cả đại đội có tám mươi người chia làm hai trung đội. Học viên bây giờ là chiến sĩ, có đồng chí hàm trung đội bậc phó, trung đội bậc trưởng. Nhiều đồng chí có thể thay thế tôi và anh Long chỉ huy đại đội tác chiến. 
Chúng tôi đi qua cầu Võ Tùng, núi Cậu, núi Ông. Xuôi xuống Sở cao su Dầu Tiếng. 
Cách Sở cao su khoảng một giờ đi đã nghe tiếng súng nổ phía trước. Thỉnh thoảng lại có tiếng súng lớn… 
Một lát sau, súng nổ ran ran. Cao xạ và pháo ầm ầm vang trời. Tiếng 37 ly nghe xé tai! 
Tôi bảo Đình mở đài Sài Gòn nghe. Dương Văn Minh đang kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng Quân giải phóng. 
Hạ lệnh đơn vị nghỉ tại chỗ, tôi ra lệnh cho Đình xiết một băng AK chỉ thiên mừng chiến thắng. 
Lính tráng anh nào cũng xin bắn mừng chiến thắng. Tôi không cho. 
Anh Long phải ra lệnh: 
- Đồng chí nào có đạn “tăng gia” cho bắn. Tuyệt đối không được phạm vào cơ số đạn chiến đấu. 
Lúc này anh nào cũng báo cáo là có đạn “tăng gia”. Thế là tiếng súng lại vang dậy khắp cả khu rừng cao su. 
Một giờ chiều. Đã đến giờ liên lạc. Mở máy bộ đàm K63 nghe: “Bộ tư lệnh, lệnh cho các đơn vị, đóng quân tại chỗ, chờ lệnh. Phiên sau liên lạc.”. 
Anh Long dẫn hai liên lạc tìm chỗ trú quân. 
Hai giờ chiều, anh Long và hai liên lạc quay về đưa anh em đi tới địa điểm trú quân. Đó là nơi quang đãng sạch sẽ. Ria đồi thấp. Cách bìa rừng cao su độ trăm mét. Cạnh một suối nước trong xanh. 
Lúc này tiếng súng thưa dần… 
Tầm năm giờ chiều ăn cơm. Năm người mâm C bộ đang quây quần trên bãi cỏ chuẩn bị ăn. Bỗng thấy nháy tia chớp, kèm theo là tiếng nổ long trời lở đất. Quan sát về ria rừng cao su, nơi có tiếng nổ phát ra, thấy hai chiến sĩ đang lom khom chạy về. 
Khi ấy, chẳng biết là mảnh bom hay đất sỏi bay qua đầu cứ vù vù, may mà cả đại đội không ai việc gì. 
Thì ra hai cậu lấy quả pháo thối, cho kíp điện vào điểm hỏa. 
Tối 30 tháng 4 năm 1975. Lác đác tiếng súng mừng chiến thắng phía xa xa. 
Toàn đơn vị chỗ thì ngủ, chỗ thì thao thức không ngủ được. Huyên náo chuyện trò. 
Chẳng phải cắt cử canh gác gì cả.

                                                Hết

                                                          Đăng bởi Nguyễn Như Khánh

0 nhận xét:

Đăng nhận xét