Đại tá Nguyễn Thông (Ba Kế)
Anh còn có tên là Trần Đài, sinh năm 1945, quê ở Nam
Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Sinh ra trong một gia đình yêu nước,
giàu truyền thống cách mạng, cha đi tập kết ở miền Bắc, còn mẹ thì tham gia Hội
mẹ chiến sĩ, từ nhỏ Trần Văn Thái đã nuôi chí lớn. 14 tuổi anh tham gia vào đội
du kích làm giao liên mật, luôn tích cực dũng cảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ và mưu cầu tiến bộ.
Năm 1962 Thái được lựa chọn đi học lớp báo vụ vô tuyến
điện ở Quân khu 9. Đến nơi, anh cùng đồng đội bắt tay vào xây dựng căn cứ ở rừng
sâu, học tại chức, vừa học vừa quay máy phát điện, công việc rất mệt và rất buồn
nhưng anh vẫn không nản. Thái nhanh chóng học giỏi, làm việc tốt nên được bố
trí công tác ở Đài quan trọng, làm việc với Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền. Ở đây,
có những đêm khuya chờ phiên trực Thái thường kể chuyện cho các anh em nghe như
"Thép đã tôi thế đấy", "Bạch Mao nữ", "Thủy
hử",v.v. Bây giờ anh em thường nhắc lại như anh Huỳnh Minh Xuyên, Nguyễn
Thanh Kim nói "anh Thái kể chuyện rất hay, anh em nghe rất mê".
Trước đây Thái cũng nghe rất nhập tâm những mẩu chuyện trên do các anh tập kết ở
miền Bắc về thuật lại như anh Ba Giao, anh Ba Kế...
Giữa năm 1967, Thái phụ trách đài đi tiền phương Quân
khu ở Vĩnh Tuy (Kiên Giang) không may gặp địch đổ quân đi càn, đồng chí Thái bị
thương vào tay phải, đứt gót chân trái nên đi khập khiễng chân thấp chân cao. Lần
đầu bị thương, tâm trạng anh rất buồn và lo lắng vì không biết đơn vị có giữ lại
hay cho về địa phương. Anh lại suy nghĩ về mối tình đầu với cô gái cùng quê, đã
đính hôn. Nhưng anh quyết định lánh mặt thà một mình chịu khổ, chứ không muốn để
người yêu phải khổ suốt đời vì lấy người chồng bị tàn phế.
Bẵng đi một thời gian, người yêu được tin Thái bị thương,
cô cũng suy nghĩ nhiều và lo lắng phân vân. Nhưng cô vẫn thương anh, gia đình,
bè bạn động viên khiến cô quyết tâm giữ trọn lời đính ước ngày nào dù anh có bị
tật nguyền thế nào cô cũng chấp nhận. Cô gái ấy tên là Đào Thị Bông. Cô đã gửi
nhiều thư cho anh và động viên anh xin phép về nghỉ dưỡng; nhưng Thái vẫn im lặng.
Sau đó thủ trưởng đơn vị và anh em đồng chí biết chuyện cũng khuyên anh và tạo
điều kiện cho anh về thăm người yêu.
Thế rồi hai người gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, chuyện trò
với nhau những chuyện băn khoăn, bàn với nhau những chuyện tương lai. Họ làm lễ
cưới và ít lâu sau anh chị có thêm một đứa con trai; càng về sau cháu càng giống
bố như đúc, cao lớn đẹp trai. Hạnh phúc tràn đầy mà ngắn ngủi quá chừng. Vì nhiệm
vụ nên Thái phải lên đường, để rồi không bao giờ được gặp vợ và con nữa...
Cuộc kháng chiến ngày càng quyết liệt, khẩn trương, Thái
cũng như mọi người đều cuốn hút vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968, rồi chống địch bình định U Minh. Và cũng trong thời khắc này Thái càng
xác định cho mình một quyết tâm cao "mình phải sống như Paven"
của Liên Xô, mặc dù bị thương tật nhưng anh vẫn sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, thấy
điện bị ứ đọng nhiều, anh em đồng đội làm không xuể đồng chí Thái liền nghĩ
cách giúp đỡ họ. Anh ra sức khổ luyện tập viết, tập đánh điện (maníp) bằng tay
trái, ở đâu, lúc nào cũng tập luyện, thậm chí vào mùng nằm xuống anh cũng lấy viết
hoặc nhún nhảy mấy ngón tay trên chân trái. Viết và đánh từ chậm đến nhanh dần
lên và làm tốt công việc. Sau đó anh được phụ trách đài kiểm tra, làm giáo viên
huấn luyện báo vụ, tại đây anh học đánh maníp lắc..., do anh Ba Can hướng dẫn
nhờ đó Thái đánh 140 chữ/phút; anh em trong lớp nhanh chóng nâng cao trình độ
thu lên 120, 130 chữ/phút.
Tình hình chiến trường ngày càng khốc liệt, quân số thiếu,
Phòng phải phân công anh phụ trách tổ thu phát đưa điện cơ yếu. Tổ có 5 người
thì 3 người bị thương què chân và 1 cháu nhỏ; lúc nào có khó khăn địch đánh phá
ngăn chặn thì đồng chí gương mẫu xung phong đi chuyển điện. Có lần địch càn vào
vị trí đóng quân, tuy chỉ còn tay trái nhưng anh vẫn ghì chắc tay súng chiến đấu,
đã bắn hạ 15 tên giặc và cùng đồng chí Hạ bắn rơi 2 trực thăng. Những lúc thiếu
thức ăn, đồng chí còn bơi xuồng đi giăng câu, anh để mồi trên bắp vế, lấy lưỡi
câu móc mồi, có lúc móc mồi trúng bắp vế đau điếng... Có thể nói mọi nhiệm vụ lớn
hay nhỏ đồng chí đều nhận và làm tốt, luôn giành phần khó về mình, nhường thuận
lợi cho đồng đội, ngay cả những lúc lâm nguy, anh vẫn bình tĩnh sáng suốt lo
cho mọi người như kết sổ tài chính hàng ngày coi như đã bàn giao vắng mặt nếu
không may mình bị hy sinh, quyết không làm khó cho tổ chức.
Những lúc rỗi Thái tâm sự với anh em về gia đình. Biết
vợ sinh con trai đầu lòng, anh mừng và thương nhớ lắm, cũng thấy trách nhiệm
làm chồng làm cha nhất là lúc vợ vượt cạn. Nhưng sau đó anh xác định trách nhiệm
là cán bộ, đảng viên trong lúc này không cho phép mình nghĩ khác mà phải kề vai
sát cánh cùng đồng đội tiêu diệt kẻ thù, giữ vững mạch máu thông tin.
Đầu năm 1971, Thái được phân công làm chỉ huy trưởng Đại
đội 2 vô tuyến điện. Đây là đơn vị mà cán bộ được phân công về ai cũng do dự vì
trước đó 2 ban chỉ huy đều bị trúng bom địch và hy sinh, riêng đồng chí Thái vẫn
vui vẻ nhận nhiệm vụ, một mình đồng chí kiêm nhiệm nhiều chức như chính trị
viên, quản lý... luôn sâu sát động viên anh em an tâm hoàn thành nhiệm vụ, có
lúc thiếu người đồng chí chống xuồng đi giao điện dịch ngay.
Giữa năm 1971, để bảo vệ an toàn cho đơn vị, đồng chí Thái
xung phong đi tìm địa điểm dự bị sẵn sàng cho việc cơ động di chuyển. Nhưng
không may trên đường đi đồng chí Thái vướng phải lựu đạn địch, lựu đạn nổ và
anh đã hy sinh ngay tại chỗ vào ngày 15 tháng 5 năm 1971 âm lịch.
Được tin đồng chí hy sinh, toàn đơn vị vô cùng đau
xót, tiếc thương và phát động phong trào thi đua học tập theo tinh thần triệt để
cách mạng của đồng chí Trần Văn Thái. Vợ đồng chí Trần Văn Thái được tin chồng
hy sinh nên rất đau buồn; chị đã không đi bước nữa mà thờ chồng nuôi con nên
người và tích cực tham gia công tác ở địa phương.
Sau hoà bình, nhiều lần gia đình chị Bông đã đi tìm mộ
anh Thái mà không thấy. Mãi đến ngày 21 tháng 4 năm 2009, gia đình mới tìm được
mộ anh và đem hài cốt anh về chôn tại nghĩa trang huyện Hòn Đất trước sự chứng
kiến của người thân, bạn bè, đồng chí, chính quyền địa phương và Trung đoàn
thông tin 29 Quân khu 9.
Trên 10 năm chiến đấu, đồng chí Trần Văn Thái đã trưởng
thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội; từ quay viên trở thành đài trưởng giỏi;
tham gia huấn luyện 2 lớp báo vụ trên 70 đồng chí. Thái là một cán bộ mẫu mực,
tài năng; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh,
biết tạm gác chuyện riêng tư vì sự nghiệp chung. Đồng chí đã được truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1985. Trần Văn Thái chính là
một trong những "Paven" của Việt Nam thời chống Mỹ.
Cần Thơ, ngày 20-8-2009
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét