4.2.25

Giao liên Quân khu 9

Ứng Doãn Núi - Đội trưởng Đội quân bưu

Ở chiến trường đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ chống Mỹ, ai đã từng đi theo đường giao liên mới cảm thông sâu sắc câu "Qua sông bạc đầu, qua cầu giám kỷ". Nhưng anh chị em giao liên vẫn ngày ngày gan dạ, khôn khéo vượt qua mọi sự đánh phá ngăn chặn của kẻ thù, đưa cán bộ, tài liệu, vũ khí... về đến đích an toàn.

Từ năm 1967 trở đi, chiến trường Khu 9 càng gian khổ ác liệt và chuẩn bị cho Mậu Thân 1968, Khu ủy và Quân khu thống nhất sáp nhập Quân bưu và Giao bưu vận thành đường giao liên quân - dân - chính - đảng, quy mô cấp trung đoàn do Quân khu chỉ đạo, tăng cường anh Trung Chính - cán bộ Trung đoàn làm chính trị viên. Ban chỉ huy 6 người, anh Sáu Sự là chỉ huy trưởng.

Đường giao liên này gồm 1 tổng trạm, 3 tuyến đường chính: 1A đi sông Hậu, 1B đi sông Tiền, 1C đi núi Cô Tô - mốc biên giới Cam-pu-chia và 1 đường đi nội địa, hình thành 35 trạm, trung bình mỗi trạm 7-8 người, mỗi tuyến đường chính có 1 phó chỉ huy phụ trách và 1 trung đội vũ trang mở đường.

Riêng lực lượng Quân bưu, phụ trách tổng trạm (T732), có 1 trung đội hỏa tốc, 1 trung đội vận tải hợp lại thành đại đội do đồng chí Ứng Doãn Núi, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Chí Tâm, Ba Phùng chỉ huy, hai trung đội T731- T733 bố trí thành 12 trạm từ Cà Mau lên nam sông Hậu.

Lực lượng giao liên đã khắc phục mọi gian khổ hy sinh, mưu trí giữ vững đường dây thông suốt nhất là các đầu cầu vượt sông Tiền và sông Hậu như đồng chí Lê Quang Vinh - trưởng trạm A546 (tuyến Trà Vinh, Mỏ Cày) khi qua sông Tiền bị tàu địch phát hiện, đồng chí đã liều mình nghi binh làm lạc hướng địch và bắn trả quyết liệt với tàu giặc để cứu đoàn cán bộ về Miền dự hội nghị được an toàn. Đồng chí Tiên ở đội hỏa tốc là "cây mở đường" có lệnh là đi, đi là đến, có lần qua cống Cả Luyện (Long Mỹ, Cần Thơ) bị địch phục kích, đồng chí đánh trả và khôn khéo vượt qua, đưa công văn kịp thời. Ở Long Châu Hà, địch thường đổ quân chốt chặn đánh phá, lực lượng giao liên kết hợp địa phương chiến đấu quyết liệt với địch để mở đường bảo vệ hàng, nhất là mùa nước nổi có đoạn dài 20-30km anh chị em phải trầm mình dưới nước suốt đêm, đầu đội hàng, tài liệu, quần áo bị cỏ cắt rách nát, ăn uống thất thường nhưng tất cả đều vượt qua. Nam cực 1, nữ khổ 10, nhiều chị em dũng cảm hy sinh trên đường, nhiều chị em bị bệnh rụng gần hết tóc, một số chị em mắc bệnh trầm trọng vì đời sống quá khó khăn, thiếu thốn. Có thể nói mỗi viên đạn, một bưu phẩm... đến chiến trường Khu 9 đều thấm máu của giao liên Khu 9.

Bên cạnh đó, phong trào thi đua sôi nổi từ cơ quan đến các trạm, ý thức tự lực được đề cao, làm ruộng đủ gạo ăn 6 tháng. Nổi bật là Trạm 547 đóng ở kinh Giáo Mẹo (Vĩnh Long) là đơn vị dẫn đầu của toàn ngành giao bưu vận, được Bộ Tư lệnh Miền tặng cờ Quyết thắng và Huân chương Chiến công hạng Nhì.

Đầu năm 1969, theo yêu cầu quân sự, Đội quân bưu được tách ra thành lập đại đội phiên hiệu B16 trực thuộc Ban thông tin Quân khu, quân số 62. Ban chỉ huy có 3 đồng chí: Ứng Doãn Núi, Hồ Hai, Dương Văn Đặng với nhiệm vụ vẫn duy trì 3 trung đội, 12 trạm móc nối tất cả các đơn vị, đồng thời liên lạc với bắc sông Hậu và có 2 tiểu đội hỏa tốc đi các hướng.

Đường giao liên B16 thời kỳ địch bình định U Minh, việc đảm bảo liên lạc rất gian khổ ác liệt, thường xuyên bị địch càn quét, chốt chặn chia cắt, đồn bót giăng khắp nơi, nhiều đoạn đường trước đi trong ngày, nay phải đi 5-6 ngày thậm chí đổi bằng máu.

Tuy vậy, từ chỉ huy đến chiến sĩ đều gan dạ, mưu trí bám trụ cơ động đánh địch, bảo vệ cán bộ, tài liệu... Như đồng chí Ba Thời dẫn đoàn cán bộ từ Sân Gạch về Xẻo Lá (Rạch Giá) đường xa, đi 2 - 3 ngày gặp địch phục kích, một số đánh kìm giữ địch, số còn lại đưa khách đi đường phụ an toàn.

Có nhiều đồng chí nữ để tránh địch, phải càn rừng, quần áo rách nát để đưa khách đi kịp dự hội nghị. Có trạm bám trụ để giữ liên lạc các nơi bị trận địa pháo thứ 11 (Rạch Giá) thường xuyên bắn phá, có lúc bắn hàng ngàn quả pháo vào tọa độ trạm đang ở, nhưng các đồng chí vẫn kiên cường củng cố công sự hai ba tuyến, tiếp tục ở.

Về ăn ở của B16 rất gian nan, liên tục bị đánh phá, càn quét, đơn vị đa số là nữ, đóng ở đâu các đồng chí cũng tổ chức đời sống tốt, xây dựng chòi trại, công sự vững chắc. Riêng đồng chí Lẹ, hành quân đến nơi, chị em chưa mang ba lô lên bờ đã thấy đồng chí ở trên nóc nhà che lại những chỗ bị phi pháo bắn, thật là "lẹ như sóc", đúng như cái tên cha mẹ đã đặt cho cô.

Đặc biệt ngày 7 tháng 9 năm 1970, đồng chí Trần Minh Xiêm - tiểu đội phó hỏa tốc đưa đoàn cán bộ về khu dự hội nghị. Trên đường vào gần đến rừng U Minh Thượng bị máy bay địch phát hiện, đồng chí chỉ đường cho cán bộ chạy vào rừng, mặt khác bắn máy bay thu hút hỏa lực về phía mình. Kết quả đồng chí bắn rơi 1 trực thăng cán gáo, bảo vệ đoàn cán bộ 10 đồng chí và đồng chí đã hy sinh anh dũng ở tuổi 18. Người con An Biên - Rạch Giá không còn nữa nhưng đã để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng đồng đội. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Năm tháng rồi qua đi, nhưng hình ảnh người giao liên Khu 9 vượt qua mưa bom, bão đạn giữ vững đường dây không thể nào phai mờ trong ký ức chúng tôi.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

0 comments:

Đăng nhận xét