4.2.25

Liên lạc công khai Quân khu 9

Nguyễn Thành Văn (Tám Danh) - Đội trưởng giao liên công khai Khu 9

Liên lạc công khai là một loại hình liên lạc mới, táo bạo ở Quân khu 9 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là thời kỳ địch tiến hành "bình định" ở miền Tây Nam Bộ gắt gao (1969-1972). Việc liên lạc công khai đã góp phần rất đắc lực vào việc đưa đón cán bộ trong đó có không ít cán bộ cấp Quân khu, vận chuyển nhiều tài liệu quan trọng, nhiều tiền bạc và cả vũ khí vượt qua vùng địch kiểm soát nhanh chóng, bí mật, bất ngờ, góp phần thu ngắn khoảng cách thực hiện mục tiêu chiến dịch, chiến lược của Quân khu.

Trước tình hình địch đánh phá khốc liệt chia cắt chiến trường Quân khu 9 ra hàng trăm ngàn mảnh, do đó việc liên lạc, đi lại gặp nhiều khó khăn. Đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu đã chỉ thị cho các ngành và lực lượng vũ trang tổ chức liên lạc công khai, lực lượng thông tin công khai ra đời đã hỗ trợ đắc lực trong thời kỳ đánh địch cho đến năm 1974.

Vận dụng những kinh nghiệm liên lạc công khai của Đảng thời kỳ bí mật nhất là giai đoạn đấu tranh chính trị (1954-1960) ở miền Nam, lựa chọn số cán bộ đảng viên gia đình trung kiên có điều kiện hoạt động để tổ chức bồi dưỡng giao nhiệm vụ. Riêng tiền phương Quân khu ở Vĩnh Trà đã tổ chức liên lạc công khai sớm nhất trong lực lượng vũ trang Quân khu (cuối năm 1967) do đồng chí Cao Văn Đởm phụ trách hậu cần tiền phương Quân khu chỉ đạo, đã đưa tài liệu, cán bộ đi qua vùng địch kiểm soát từ Vĩnh Trà về Khu ở Cà Mau nhanh chóng an toàn, trong đó có đồng chí Cao Văn Đởm, Nguyễn Hoài Pho (Ba Mai) – Phó Tư lệnh Quân khu, chỉ huy trưởng tiền phương Vĩnh Trà.

Đội liên lạc công khai Ban thông tin (A8) được hình thành cuối năm 1970 do đồng chí Nguyễn Công Danh (Tám Danh) và Đinh Kha chỉ huy gồm 3 tổ: Tổ 1 Nguyễn Thị Mừng (Mười Kỳ) phụ trách, tổ 2 - chị Hai Ngọc, tổ 3 - gia đình anh Ba Phương và một số chốt ở Cà Mau, Rạch Giá và Cần Thơ. Tuy mới ra đời nhưng các đồng chí tích cực hoạt động đưa công văn hỏa tốc kịp thời cho các nơi địch đang càn quét, có lần đồng chí Mười Kỳ bình tĩnh khôn khéo nói đưa chồng đi trị bệnh qua mắt bọn lính xét hỏi để đưa đồng chí Khu ủy viên về dự hội nghị khu kịp thời. Địch thường xuyên phục kích tuyến đường qua lại sông Trẹm giữa U Minh Thượng - U Minh Hạ và chỗ anh em tới lui mua gạo... Đồng chí Tám Danh được trên giao nhiệm vụ vận động người làm ám hiệu mỗi khi có địch phục kích, nhờ vậy đã cứu nhiều đoàn cán bộ và đặc biệt đồng chí Tám Danh nhận hai lần 5.000 đô la Mỹ từ B2 gửi bằng đường công khai giúp Quân khu giải quyết kịp thời trong lúc túng ngặt, từ đó thông tin có tiền mua gạo, pin. Ở các tỉnh đội cũng tổ chức 2 đến 4 tổ, phương tiện xuồng máy do Ban tham mưu trực tiếp quản lý liên lạc trong ngoài tỉnh và về Khu.

Lực lượng liên lạc công khai Quân khu ngày càng thể hiện bản lĩnh trung thành vô hạn, dũng cảm và khôn khéo, trăm mưu ngàn kế qua mắt kẻ thù hoàn thành nhiệm vụ. Ở Cà Mau, má Nguyễn Thị Năm đi xuồng chèo tìm tiền phương Tỉnh đội rất khó khăn nguy hiểm, phần mệt, phần đói nhưng má cũng cố gắng đến nơi để đưa công văn hỏa tốc kịp thời, má được tặng Bằng khen (7-1969). Cô Hoa, cô Liễu vượt vòng vây địch ở Cây Khô về Tỉnh đội Cà Mau nhận nhiệm vụ (1970); má Chín Sức, cùng một lúc hoàn thành 3 nhiệm vụ được tặng Bằng khen (5-1974). Ở Rạch Giá có chị Năm Dô luôn hoàn thành nhiệm vụ, chị Tư Bốn (Phạm Thị Tư) ở kinh Xáng, Cò Tuất một mình 3 nhiệm vụ như đưa tin, tiếp tế, chuyển thương binh qua đồn địch... Lực lượng công khai quân báo Khu vượt mọi gian khổ hy sinh, mưu trí đưa tin địch kịp thời, góp phần đáng kể vào việc phá vỡ kế hoạch bình định U Minh. Điển hình như bác Gái tên Bảy Hường và con gái là cô Tuyết thường xuyên đưa thư mật, tài liệu về cụm quân báo Cần Thơ. Đặc biệt năm 1969 bác Bảy đã chuyển kịp thời các khóa mật mã KĐC khóa đối chứng tổng hợp sử dụng cho các quân binh chủng trên sóng cực ngắn ANC, ANK giữa các vùng chiến thuật, qua đó giúp Bộ Tư lệnh Quân khu nắm chắc tình hình địch. Những mệnh lệnh và báo cáo thỉnh thị của địch qua điện đài tới các đối tượng của chúng thì coi như là đồng điện cho ta. Chị Lê Thị Bình (Tư Mau) bị địch bắt không khai báo (1972). Ba má Tám làm giao liên công khai Vĩnh Trà đưa đồng chí Ba Trung - Phó Tư lệnh Quân khu về khu báo cáo kịp thời. Sau đó ba má Tám bị địch bắt tra tấn tàn nhẫn nhưng ba má không khai nửa lời, chúng đạp ba Tám xuống sông bắn chết nhằm uy hiếp tinh thần má Tám, nhưng má dùng lời lẽ đấu tranh với chúng, địch tiếp tục giam cầm má, nhưng vẫn không khai thác được gì. Sau này má Tám (Phùng Thị Năm) được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 22 tháng 12 năm 1994.

Lực lượng giao liên Cục Hậu cần do đồng chí Ba Lõi, Năm Hoằng, sau này là đồng chí Bảy Hồ, Năm An, Chín Lâm phụ trách hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Như đồng chí Trương Thị Mỹ, ngụy trang khéo léo, bên cạnh ghe máy mua thêm xe Pơgiô 404 loại cao cấp lúc ấy do anh Ba Xê phụ trách kiêm lái xe đưa rước cán bộ, đổi tiền cũng nhanh, đi đường ít ai hỏi. Có lần xe xuống Vị Thanh rước đồng chí Phạm Ngọc Hưng (Năm Hải) - Tư lệnh phó Quân khu 9 và Chủ nhiệm hậu cần Quân khu Ngô Đức Nhường lên B2 dự hội nghị trong ngày đến nơi, trong khi đó nếu đường giao liên du kích bí mật thì phải mất vài tháng. Trên tuyến Rạch Giá, đồng chí Bảy Hồ tổ chức đưa đồng chí Mười Hồng - Tỉnh đội phó Rạch Giá từ Thứ Ba về Ba Hòn bằng đường biển ba tiếng đồng hồ là đến, nếu đi đường bộ phải mất hai tháng, chưa chắc đến.

Liên lạc công khai của tiền phương Quân khu, của Hậu cần Quân khu cũng là tiền thân của vận tải công khai; nhiệm vụ vận tải công khai cũng rất nặng nề chuyên chở vũ khí khí tài, tiền đô la, thư từ miền Bắc gửi vào... Các đồng chí đã rất nhanh trí, sáng tạo vận dụng nhiều phương cách, khôn khéo vượt qua xét hỏi của đồn trạm, tàu tuần tra của địch về đến nơi an toàn, góp phần rất lớn để có vũ khí đánh địch trong lúc bị địch phong tỏa quyết liệt. Tiêu biểu cho thành tích tập thể Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là Tiểu đoàn 804 và ba cá nhân anh hùng: đồng chí Bùi Văn Viết (Tư Thắng), Trương Thị Mỹ và Lâm Văn Sắc (Hai Vinh).

Bên cạnh có sự hỗ trợ rất quan trọng của đội giao liên công khai của khu Tây Nam Bộ do đồng chí Đỗ Phú Cấn và Trần Phúc Sinh (Sáu Quắn) phụ trách đã từng tổ chức rất chu đáo đưa các đồng chí lãnh đạo Quân khu đi nhanh chóng, an toàn như đồng chí Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Hưng, Nguyễn Đình Chức... Sau đây xin trích nhận xét của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: "Tôi muốn nhấn mạnh phần này, trí tuệ của bà con mình lớn quá, họ là người bình thường (có khi chưa biết chữ) rất thiệt thà hiền hậu không cãi vã so hơn tính thiệt với ai. Nhưng xử lý tình huống thì thông minh bén nhạy, kiệt xuất và nếu như không có một khối người dường ấy khôn ngoan lanh lợi, họ sẽ không bảo vệ nổi chúng tôi và như vậy có nghĩa là mình sẽ rơi vào tay giặc...".

Giao liên công khai đã góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là thắng lợi mùa Xuân năm 1975.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

0 comments:

Đăng nhận xét