Trung tá Phan Lê
Trại Đa-vít nằm trong khu vực sân bay quân sự Tân Sơn
Nhất - Sài Gòn - nơi được chọn đặt trụ sở phái đoàn liên lạc của ta làm nhiệm vụ
bảo đảm thi hành Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam.
Để phục vụ thông tin liên lạc cho phái đoàn Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Trung tướng Trần Văn Trà làm
Trưởng đoàn, theo chỉ thị của Bộ chỉ huy Quân sự Miền, Phòng Thông tin B2 tổ chức
lực lượng thông tin cùng trang bị phương tiện khí tài bảo đảm. Thành phần gồm
cán bộ, chiến sĩ thông tin hữu tuyến, đài trưởng, báo vụ, kỹ sư có nhiều năm
kinh nghiệm trong nghề, trải qua thử thách trong chiến đấu gian khổ và ác liệt
của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và làm nghĩa vụ quốc tế, có phẩm chất
đạo đức cách mạng, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc.
Để kịp bắt liên lạc với toàn mạng, ngay sau khi đến trại
Đa-vít, chúng tôi nhanh chóng triển khai liên lạc với các đối tượng chủ yếu như
Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội, Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy quân sự Miền. Sau
đó bắt liên lạc với các khu vực liên hiệp đình chiến, các phân khu... Trong
khuôn viên của trụ sở Ban liên hiệp với chiều dài khoảng 200m ngang 100m, việc
đặt đài và phân bổ sóng phải thật hợp lý, khoa học để không ảnh hưởng đến giờ
liên lạc và làm nhiễu sóng giữa các mạng.
Thủ đoạn phá hoại của địch rất xảo quyệt. Chúng dùng sóng
rada, tiếng chạy máy nổ và máy phát cực mạnh phủ quét toàn bộ sóng thu của ta từ
2 đến 12MHz (ta chỉ có trang bị loại máy thu 139 của Trung Quốc có dãy tần số từ
2 đến 12MHz) nên gặp rất nhiều khó khăn trong liên lạc. Cường độ làm việc của
anh em khá cao. Trung bình mỗi ngày toàn cụm giải quyết trên 200 bức điện cả
thu và phát. Mỗi bức thường cấu trúc khoảng 50 đến 80 nhóm 5 chữ số hoặc 5 chữ
cái.
Những lúc địch đánh phá anh em thường đề nghị tôi với
cương vị là người phụ trách đơn vị trực tiếp vào làm và xử trí tình huống để
rút kinh nghiệm. Suốt cả dải tần của máy thu 139 bị địch phá hoàn toàn không có
tín hiệu gì ngoài tiếng rồ và tiếng máy nổ. Mà không có tín hiệu thì làm sao
liên lạc được. Tôi nghĩ hay mình vẫn cứ lên máy phát sóng gọi bắt liên lạc như
bình thường xem sao. Vẫn giả vờ thu phát điện. Cũng xin đi hỏi lại những chỗ
sai thiếu... và cuối cùng là báo nhận tốt. Mà thực tế mình không nhận được gì cả.
Chờ đến phiên liên lạc sau hoặc gọi ngay đài canh bạn đề nghị phát lại toàn bộ
những gì bạn đã phát trước đó.
Mặt khác để chống địch đánh phá có hiệu quả hơn, tôi nghĩ
cách tốt nhất là đề nghị thay đổi sóng phát của đài bạn vượt khỏi tần số 12MHz
(từ khoảng 12 đến 25MHz) và đề nghị Bộ Tư lệnh Thông tin Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh
trang bị khẩn cấp cho chúng tôi loại máy thu 7512 của Trung Quốc có dãy tần số
từ 1,5MHz đến 30MHz. Hình như địch cảm nhận phá thông tin ta không hiệu quả nên
dần dần chúng có giảm bớt. Chỉ thỉnh thoảng phá đột xuất chứ không phá thường
xuyên như những ngày đầu mới triển khai. Ngoài thủ đoạn phá thông tin ta, chúng
còn tìm cách gây khó khăn cho sinh hoạt của phái đoàn như cắt điện, cắt nước
liên tục, thả chất độc hóa học loại CS từ hướng gió bay qua trụ sở phái đoàn
ta. Chúng đặt sẵn máy ghi âm ở nhà ăn, nơi rửa bát... Chúng còn dùng "mỹ
nhân kế" để dụ dỗ ta như đưa các cô gái mặc đồ hở hang đến liên hệ hợp đồng
mua hàng hóa, thức ăn hằng ngày cho ta, bị ta cương quyết phản đối và dứt khoát
không tiếp. Tất cả mọi thủ đoạn nham hiểm của địch vẫn không làm cán bộ, chiến
sĩ ta nao núng. Ngược lại càng nung nấu tinh thần dũng cảm đấu tranh quyết liệt
với kẻ thù.
Khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, để đề phòng địch ném
bom, bắn phá vào trụ sở Ban liên hiệp, theo lệnh trên chúng tôi tổ chức thay
nhau ngày đêm bí mật đào hầm địa đạo thông từ nhà này sang nhà bên, suốt dọc
chiều dài và chiều ngang trụ sở. Sau thời gian khẩn trương hoàn thành theo kế
hoạch, chúng tôi bắt đầu làm việc, ăn ở, sinh hoạt dưới địa đạo cho đến khi
quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chúng tôi vô cùng biết ơn Bộ Tư lệnh Thông tin Bộ Quốc
phòng - Tổng tư lệnh đã dành cho chúng tôi sự chi viện kịp thời, hiệu quả về
phương tiện khí tài, cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật tạo thuận lợi cho thông
tin phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Từ khi bắt đầu triển khai mạng thông tin vô tuyến điện
phục vụ phái đoàn Ban liên hiệp quân sự bốn bên và hai bên, sóng của ta từ trại
Đa-vít vẫn hiên ngang tung cánh trên bầu trời Sài Gòn, thông tin liên lạc được
giữ vững và thông suốt cho đến giờ phút thắng lợi hoàn toàn kết thúc chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hơn 2 năm sống giữa lòng địch, mặt giáp mặt với quân thù,
cán bộ, chiến sĩ đơn vị thông tin Ban liên hiệp vẫn đoàn kết một lòng, thương
yêu đùm bọc, sống chết có nhau, để lại cho nhau biết bao kỷ niệm sâu sắc trong
cuộc đời bộ đội, cùng sẵn sàng chấp nhận hy sinh trong trận chiến cuối cùng, vì
sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng: Giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc
thực hiện trọn vẹn nguyện vọng của Bác Hồ kính yêu trước lúc đi xa và cũng là ước
nguyện của toàn thể dân tộc Việt Nam ta từ ngàn đời nay.
Vinh quang thay những cán bộ, chiến sĩ thông tin B2 - những
người còn sống và những ai đã vĩnh viễn nằm xuống trên mảnh đất quê hương góp
phần làm rạng rỡ Binh chủng Thông tin liên lạc, tô điểm thêm truyền thống Quân
đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét