Võ Thành Tạo
Trường Thông tin Miền có nhiệm vụ đào tạo nhân viên kỹ
thuật cho chiến trường B2. Huấn luyện trong điều kiện không có tài liệu, không
có mô hình học cụ và phương tiện, giáo viên thiếu. Vì vậy, việc đào tạo báo vụ đã
là khó khăn thì việc đào tạo cơ công sơ cấp lại càng khó khăn gấp bội.
Với yêu cầu trong thời gian 6 tháng phải đào tạo cơ
công sơ cấp có tay nghề sửa chữa độc lập được các máy vô tuyến điện, hữu tuyến
điện... của các nước xã hội chủ nghĩa và chiến lợi phẩm thu được của quân đội Mỹ.
Trong lúc đó đội ngũ giáo viên của Nhà trường kiêm nhiệm, Ban chỉ huy Đại đội
kiêm giảng dạy. Lúc đầu chỉ có các đồng chí Lê Sĩ Tuấn, Hồ Hành, sau bổ sung
thêm đồng chí Võ Thành Tạo đều là cơ công trung cấp, đào tạo ra cơ công sơ cấp.
Do yêu cầu xây dựng lực lượng, Nhà trường đã khắc phục
khó khăn, đề cao tinh thần tự lực, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong giảng dạy,
không ngồi chờ, ỷ lại vào cấp trên. Nhà trường từng bước vừa chuẩn bị giáo án giảng
dạy lý thuyết, vừa làm mô hình học cụ.
Để không dạy lý thuyết suông, giáo viên mày mò nghiên
cứu tận dụng những dụng cụ, linh kiện khí tài hiện có, để làm ra các mô hình, dụng
cụ thí nghiệm để giảng dạy.
Khi dạy về điện tử, để nhận biết từ trường do dòng điện
tạo ra, không có kim nam châm thì dùng kim la bàn để nhận biết, hoặc dùng thí
nghiệm đặt hai dây dẫn điện gần nhau, và cho hai dòng điện chạy qua sẽ xuất hiện
lực hút hay đẩy lên hai dây dẫn điện. Như vậy xung quanh hai dây dẫn mang dòng
điện có tồn tại một dạng năng lượng gọi là từ trường. Hoặc khi học, lực tác dụng
của từ trường lên dây dẫn có dòng điện mà không có nam châm hình chữ U, giáo
viên dùng nam châm của khung đồng hồ đo điện để thay thế. Khi học về tụ điện và
sự phóng nạp của tụ điện phụ thuộc vào trị số lớn nhỏ của điện dung nạp rồi cho
phóng qua ôm-kế có trị số lớn qua bóng đèn thấy sáng hoặc cho nẹt lửa qua chập
mạch. Khi học về cảm ứng từ và ứng dụng của nó cho máy phát điện, động cơ điện
thì dùng bộ phận phát điện quay tay của máy điện thoại hoặc mô-tơ trong máy
cát-sét. Khi học về mạch cộng hưởng, mạch ghép thì ráp mạch điện trên táp-lô,
dùng năng lượng đầu ra của máy phát điện vô tuyến điện đang làm việc làm nguồn
cung cấp. Khi thay đổi trị số của tụ điện và cuộn dây của mạch, thì bóng đèn
báo sáng có độ sáng thay đổi, nếu sáng nhất thì mạch đã cộng hưởng và ngược lại...
Sau khi học xong lý thuyết về điện, nguyên lý vô tuyến
điện, nguyên lý cấu tạo của các loại máy thông tin thực hành sửa chữa trên máy.
Công tác bảo đảm khí tài, phương tiện, máy thực tập hết sức quan trọng có tính quyết
định. Nhưng số máy dùng để thực tập cũng không đủ, phải xin những máy hư hỏng từ
các đơn vị về để vừa học vừa sửa chữa, vừa phục hồi cho các máy hư.
Hầu hết các chủng loại máy không có sơ đồ nguyên lý, giáo
viên phải dò mạch, lập hồ sơ và vẽ to để học viên học. Số lượng từng loại máy rất
ít không đủ để thực tập cùng một lúc. Nên sau khi lên lớp xong phần nguyên lý cấu
tạo máy, học viên được chia ra thành nhiều tổ cho từng loại máy để thực tập.
Như vậy số học viên thực tập trên một máy cũng giảm xuống, thời gian sửa chữa
cho học viên tăng lên. Nhưng giáo viên phải đảm trách cùng một lúc nhiều loại
máy nên khá vất vả: vừa theo dõi hướng dẫn, vừa tạo ra hư hỏng trên máy để học
viên tập sửa chữa máy, học viên không được sửa mò có tính chất may rủi. Mà phải
lập đề cương sửa chữa, ghi lại hiện tượng mình phát hiện được bằng quan sát,
tai nghe, bằng các trị số như: ôm, vôn, dòng điện... rồi vận dụng lý thuyết học
được để phán đoán tìm ra hư hỏng.
Với tinh thần sáng tạo trong huấn luyện của giáo viên,
với tinh thần tích cực miệt mài say sưa trong học tập của học viên, kết quả mỗi
khóa đào tạo được từ 50-60 cơ công sơ cấp. Quá trình đào tạo của Nhà trường đã
đào tạo được 1.205 cơ công sơ cấp, cung cấp kịp thời cho các đơn vị, góp phần
vào việc bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy chỉ đạo thông suốt.
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét