Thiếu tướng Nguyễn Diệp - nguyên Trưởng ban Khoa học
quân sự Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc
Đầu tháng 8 năm 1971, sau khi tổng kết kinh nghiệm tổ
chức và đảm bảo thông tin liên lạc trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tôi được
Bộ Tư lệnh Thông tin cử vào chiến trường B2 để phổ biến kinh nghiệm về tổ chức
và sử dụng phương tiện thông tin trong các chiến dịch quy mô lớn và các trận
đánh hiệp đồng quân binh chủng.
Cùng đi với tôi có đồng chí Phạm Mạnh Tường - cán bộ Trung
đoàn 205 thông tin, một cán bộ trưởng thành từ báo vụ viên nên có kinh nghiệm về
tổ chức khai thác phương tiện vô tuyến điện. Chúng tôi đem theo gần 20kg tài liệu
để phổ biến cho các đơn vị nên được Bộ Tư lệnh cử một chiến sĩ (anh Lôi) mang
tài liệu vì ba lô đựng tư trang, thuốc men, lương thực dự trữ của từng người đã
nặng hơn 20kg, chưa kể còn đeo bao gạo 3 - 5kg ở thắt lưng...
Từ Hà Nội, chúng tôi được xe quân bưu đưa vào Quảng Bình,
đến trạm giao liên "cửa rừng" để vượt Trường Sơn bằng đường bộ tuy vất
vả nhưng an toàn hơn đi đường giao liên cơ giới.
Với quyết tâm phải đến B2 trước khi ta mở đợt tiến công
chiến lược Xuân 1972 để kịp mở lớp tập huấn cho cán bộ thông tin B2 nên mỗi
ngày chúng tôi cố đi một chặng khoảng 25km đường đèo dốc, có lúc còn "vượt
chặng" nếu đường đi ít dốc cao và trời còn sớm.
Sau khi vượt qua Đường 9 bắt đầu gặp khó khăn về lương
thực vì các kho dự trữ bị sử dụng gần hết trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào
nên mỗi ngày chỉ được cấp 300g gạo, phải kiếm măng và rau rừng luộc ăn cho đầy dạ
dày! Vì ăn uống thiếu thốn nên sức khỏe của mấy anh em đều giảm sút, tôi lại bị
rắn độc cắn vào mắt cá chân, may mà kịp thời làm ga-rô và đến Trạm được tiêm, uống
thuốc giải độc nên tiếp tục hành quân tuy chân sưng tấy. Khi đến đoạn đường rẽ
vào B3 (Tây Nguyên), chúng tôi lần lượt bị sốt rét, đầu tiên là cậu Lôi nên
chúng tôi phải chia nhau đeo thêm tài liệu. Sau cậu Lôi, đến lượt tôi cũng bị sốt
rét nên đoàn phải vừa hành quân vừa nghỉ sau một vài chặng để chờ tôi1.
Vì sốt ruột, sợ mất liên lạc với nhau, không vào B2 đúng
kế hoạch nên ở trạm xá được một tuần tôi xin đi tiếp tuy vẫn còn sốt. Khi gần đến
ngã ba Biên Giới, chúng tôi gặp lại nhau và sau khi qua Krachiê (Campuchia)
chúng tôi được cấp xe đạp đi cho đỡ mệt. Một hôm vì đang sốt hoa mắt và tay lái
không vững nên khi lao dốc không kịp phanh, tôi bị ngã xây xát cả người. Cuối
cùng, sau 100 ngày vượt Trường Sơn bằng đường bộ, chúng tôi cũng đến đích vào
cuối tháng 11 năm 1971, kịp thời tổ chức lớp tập huấn cho cán bộ thông tin từ cấp
đại đội trưởng trở lên trước khi mở Chiến dịch Nguyễn Huệ.
Trong đợt tập huấn, ngoài việc phổ biến kinh nghiệm tổ
chức và bảo đảm thông tin trong các chiến dịch và trận đánh ở chiến trường Khe
Sanh và Lào, chúng tôi còn huấn luyện hai nội dung kỹ thuật để anh em áp dụng
trong chiến dịch sắp tới.
Một là sử dụng loại ăngten và tổ chức trạm trung gian
chuyển tiếp để có thể sử dụng máy PRC-25 tổ chức mạng sóng cực ngắn từ sở chỉ
huy chiến dịch đến các sư đoàn và vượt cấp đến trung đoàn (trước đợt tập huấn
các đơn vị chỉ dùng PRC-25 để liên lạc trong phạm vi chiến thuật từ sư đoàn đến
trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội vì chỉ dùng ăngten cần).
Hai là tổ chức đường trục hữu tuyến của chiến dịch bằng
dây bọc và loại tải ba một đường TCT-1, TCT-2. Trước đợt tập huấn ở B2 chỉ dùng
máy tăng âm 2 chiều do kỹ sư Trung (một cán bộ từ Nhà máy M1 cử vào) thiết kế tận
dụng linh kiện từ các máy PRC-25 nhưng cự ly liên lạc còn hạn chế. Phòng Thông
tin đã nhận được nhiều máy TCT nhưng vì không có bản hướng dẫn sử dụng bằng tiếng
Việt nên máy vẫn xếp trong kho chưa dùng được.
May mà tôi biết tiếng Pháp và đã tổng kết kinh nghiệm sử
dụng loại tải ba này trong Chiến dịch 139 ở Lào, bảo đảm liên lạc ở cự ly gần
200km qua một số trạm chuyển tiếp nên khi mở chiến dịch B2 cũng sử dụng có hiệu
quả loại máy này bảo đảm liên lạc từ sở chỉ huy cơ bản B2 đến Sở chỉ huy Chiến
dịch Nguyễn Huệ xa hơn 100km.
Sau lớp tập huấn, tôi cùng đồng chí Lê Khôi - trợ lý
vô tuyến điện đưa trung đội sóng cực ngắn ra vùng Mimốt huấn luyện trên thực địa
về cách sử dụng các loại ăngten, cách lợi dụng địa hình địa vật, cách tổ chức
trạm trung gian, cách dùng mật ngữ... Đồng chí Tường thâm nhập các tiểu đoàn trực
thuộc Phòng Thông tin giúp đỡ và thu thập kinh nghiệm làm công sự của các đơn vị
trong điều kiện thường xuyên bị B-52 rải thảm...
Trước khi mở chiến dịch, chúng tôi còn xuống thăm Trường
Thông tin B2, trao đổi kinh nghiệm đào tạo báo vụ, cơ công sơ cấp.
Bước vào đợt tiến công chiến lược Xuân 1972, Sở chỉ huy
B2 chuyển từ Campuchia về Việt Nam để chỉ đạo, chỉ huy Chiến dịch Nguyễn Huệ và
các hoạt động ở địa phương. Tôi được cử làm Phó ban Thông tin chiến dịch giúp đồng
chí Năm Nhượng, còn đồng chí Tường là phái viên xuống giúp các tiểu đoàn thông
tin.
Trong đợt 1, vì được chuẩn bị chu đáo, giữ được yếu tố
bí mật, bất ngờ nên Sư đoàn 5 đánh chiếm thị trấn Lộc Ninh nhanh gọn, tiêu diệt
1 trung đoàn địch. Ta thu được nhiều chiến lợi phẩm thông tin, đặc biệt thu
nguyên vẹn chiếc xe thông tin GRC-122 là xe sóng ngắn đơn biên có khả năng bảo
đảm liên lạc báo - thoại - truyền chữ ở cự ly hàng ngàn kilômét.
Trong đợt tiến công này, các phương tiện thông tin đều
bảo đảm liên lạc tốt, đặc biệt phân đội hữu tuyến điện của chiến dịch đã bảo đảm
triển khai kịp thời đến Sư đoàn 5, giữ được bí mật trong điều kiện địch thường
xuyên tung biệt kích nhằm phát hiện lực lượng ta.
Sau chiến thắng Lộc Ninh, Sư đoàn 9 tiến xuống bao vây
Bình Long, cửa ngõ để tiến về Thủ Dầu Một. Vì trời mưa, đường lầy, việc cơ động
pháo bị chậm nên không thể tranh thủ yếu tố bất ngờ tiến công ngay trong khi địch
còn hoang mang. Tuy vậy, khi tiến công Bình Long, lần đầu tiên ta dùng xe tăng
T-54 hiệp đồng với bộ binh, pháo binh nên khi thấy xe tăng ta xuất hiện ở trong
trung tâm thị xã, địch hoảng loạn, lẻ tẻ đã xuất hiện cờ trắng và có hiện tượng
địch chuẩn bị rút chạy. Đáng tiếc lúc này Sư đoàn lại ra lệnh pháo ngừng bắn,
cùng lúc địch cho 1 lữ đoàn dù nhảy xuống phía Bắc chi viện và thả bom chặn đường
rút quân trong thị xã nên chúng lại chống cự quyết liệt, ta không dứt điểm được
và một số xe tăng đã thọc sâu không rút ra được.
Trong đợt tiến công này, thông tin chiến dịch bảo đảm thông
suốt cả bằng đường dây bọc có sử dụng tải ba TCT và mạng sóng cực ngắn PRC-25.
Tôi ở trạm trung gian giúp anh em khai thác nên nhớ hai sự kiện sau:
Một lần anh em đang canh thì có một đài địch gọi xen vào
hỏi ta hướng dẫn cách ra hàng Quân giải phóng. Tôi báo cáo về Sở chỉ huy, được
trả lời và điện lại cho đài địch, sau này được biết có một trung đội địch ra
hàng theo cách ta chỉ dẫn... vậy là thông tin cùng lập công diệt địch.
Một lần khác có đài địch xen vào nhưng nói bậy và hỏi có
tướng Giáp ở đấy không mời ra nói chuyện... Tất nhiên chúng tôi không trả lời.
Qua hai sự kiện trên thấy sự cần thiết phải dùng mật ngữ
vì khi đàm thoại qua mạng sóng cực ngắn PRC-25 ta và địch dùng kiểu máy giống
nhau nên tìm mạng của nhau rất dễ để nghe trộm hoặc gây nhiễu.
Sau đợt tiến công thứ nhất không thành công ta còn tiến
công một đợt nữa nhưng cũng không dứt điểm được nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết
định chuyển hướng, đưa Sư đoàn 5 cơ động về hướng Mỏ Vẹt hoạt động, để lại 1 trung
đoàn bao vây Bình Long, 1 trung đoàn chốt chặn ở ngã ba Tầu Ô, không cho địch ở
Thủ Dầu Một lên cứu viện, giải vây.
Trong thời điểm này, Phòng Thông tin cử tôi và anh Ba Động
thâm nhập trung đoàn bao vây Bình Long và các đơn vị pháo binh, xe tăng thu thập
kinh nghiệm để viết tổng kết. Anh Tường làm phái viên đi cùng Sư đoàn 5...
Sau gần một tháng Chiến dịch Xuân 1972 kết thúc ở cả 3
hướng Quảng Trị, Tây Nguyên và Nam Bộ trong lúc ta và Mỹ đàm phán ở Pa-ri và có
tin Mỹ buộc phải chấp nhận rút quân khỏi miền Nam.
Phòng Thông tin B2 tổ chức hội nghị tổng kết Chiến dịch
Nguyễn Huệ, rút được nhiều kinh nghiệm về kỹ thuật, chiến thuật, biện pháp bảo
đảm thông tin liên lạc trong tác chiến hiệp đồng quân binh chủng.
Lúc này có tin ta và Mỹ chuẩn bị ký Hiệp định Pa-ri, Bộ
Tư lệnh Thông tin có điện đề nghị B2 cho chúng tôi ra Bắc báo cáo tình hình để
có cơ sở giải quyết các yêu cầu của thông tin B22 sau khi quân Mỹ
rút khỏi Việt Nam.
Trên đường ra Bắc, để tranh thủ thời gian, chúng tôi đề
nghị được đi đường giao liên cơ giới nên sau khi đi đường bộ đến Krachiê, chúng
tôi được đi bằng canô trên sông Sêrêpôk - xuất phát từ buổi chiếu, canô chạy suốt
đêm để tránh phi cơ địch bắn phá. Tuy đi đêm nhưng khi nghe tiếng máy bay, canô
vẫn phải dạt vào bờ dưới lùm cây, tắt máy và phủ bao tải ẩm lên máy để địch
không phát hiện được tia hồng ngoại tỏa ra từ máy canô.
Sau hai đêm đi đường sông, chúng tôi được theo các đoàn
xe đi ra Quảng Bình. Hành trình gần một tháng theo đường giao liên cơ giới quả
là ác liệt vì nhiều lúc đoàn xe ra gặp đoàn xe vào, đường mới bị bom đang sửa nên
bị ùn tắc hàng giờ trong khi máy bay địch vẫn hoạt động bắn pháo sáng, thả bom,
cây cối ven đường còn cháy dở. Những lúc này phó mặc cho số phận và lấy gương
các chiến sĩ lái xe, các thanh niên xung phong đã chiến đấu ngày đêm từ năm này
qua năm khác để tự động viên.
Vì kết hợp đi bằng nhiều phương tiện nên sau 2 tháng chúng
tôi đã ra đến Hà Nội, rút ngắn được hơn một tháng nếu đi giao liên bộ.
Chúng tôi đinh ninh là trong khi hành quân ra Bắc thì Hiệp
định Pa-ri được ký kết, không ngờ vừa ra được một ngày, chưa kịp báo cáo tình
hình thì đế quốc Mỹ dùng B-52 đánh phá 12 ngày đêm và chỉ sau trận "Điện
Biên Phủ trên không" này địch mới chịu thua và ký hiệp định, chấp nhận điều
kiện rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam...
Đến nay, nhân dịp kỷ niệm 34 năm giải phóng hoàn toàn
miền Nam và 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nhớ lại thời gian làm phái viên
được cử vào chiến trường B2 xa xôi nhắc tôi lại nhớ đến các thủ trưởng Phòng
Thông tin miền Nam (anh Hai Thăng, anh Tư Đào, anh Năm Nhượng) và các cán bộ
thông tin Miền đã cùng chúng tôi chuẩn bị và phục vụ có kết quả trong Chiến dịch
Nguyễn Huệ (anh Tư Điệp, Tư Thỏa, Hai Vinh, Hai "LaVi", Ba Động... và
nhiều đồng chí khác), đã giúp chúng tôi thu thập được nhiều kinh nghiệm để biên
soạn tài liệu huấn luyện và đến năm 1975, sau ngày miền Nam giải phóng tôi được
cử vào tiếp quản và tổ chức khai thác hệ thống viễn thông liên kết của Mỹ - ngụy
lại được các đồng chí cộng tác và giúp đỡ nhiều.
Nhớ lại những kỷ niệm không thể nào quên về thời kỳ biệt
phái vào B2, xin chân thành cảm ơn các đồng chí đã cộng tác và giúp đỡ chúng
tôi và xin thắp nén nhang tưởng nhớ các đồng chí ra đi sau ngày miền Nam giải
phóng (anh Hai Thăng, Năm Nhượng, Hai Vinh...).
Hà Nội, 7-5-2009
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông
tin liên lạc - Tập 2”)
-------------------------------------
1 Vì thiếu lương thực nên ai khỏe vẫn phải đi, không
được ở lại chờ người ốm.
2 Vì lúc này, B2 đã cử anh Ba Kiệt ra đề nghị Bộ Tư lệnh Thông tin bổ sung trang thiết bị để phát triển lực lượng.
0 comments:
Đăng nhận xét