Đại tá Trần Minh Thạnh
Những ngày cuối năm 1963, trời đất xứ Thanh se sắt trong
cái rét cắt da cắt thịt, con người xứ Thanh với bao lo toan của ngày cuối năm,
vừa bừng bừng niềm căm giận trước những tội ác của kẻ thù, đang từng ngày từng giờ
trút xuống mảnh đất miền Nam ruột thịt. Đồng chí trợ lý cán bộ của Sư đoàn xuống
Tiểu đoàn thông báo lệnh chuẩn bị đi Nam cho tôi - Trần Minh Thạnh là Chính trị
viên phó tiểu đoàn, Lê Danh Thụ - Tiểu đoàn phó và một số cán bộ trung, đại đội.
Sau khi chuẩn bị bàn giao để nghỉ phép về thăm gia đình trước khi lên đường,
chúng tôi nhận được thông báo về Trung đoàn 68 của Sư đoàn 304 để nghe Thiếu tướng
Trần Độ - Chính ủy Quân khu Hữu Ngạn nói chuyện. Buổi nói chuyện của đồng chí
Chính ủy để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là khi đồng chí nói về
4 cửa ải mà chúng tôi phải vượt qua nếu muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng chí
nói: "Mỗi đồng chí phải phấn đấu vượt qua 4 cửa ải để hoàn thành nhiệm vụ
của người đảng viên. Bốn cửa ải đó là:
- Giải quyết tốt vấn đề tư tưởng của bản thân và gia đình,
làm cho gia đình yên tâm và đồng tình với việc đi chiến trường miền Nam của bản
thân.
- Vượt qua khó khăn vất vả trong học tập và rèn luyện ở
đơn vị khung.
- Hành quân vượt Trường Sơn tới đích.
- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được phân công".
Lời đồng chí Chính ủy vừa ân cần vừa nghiêm nghị "Giải
quyết tốt vấn đề tư tưởng của bản thân và gia đình, làm cho gia đình yên tâm và
đồng tình với việc đi miền Nam của bản thân", với tôi và các chiến sĩ chuẩn
bị vào Nam nói chung, đây là một cửa ải lớn mà chúng tôi phải vượt qua, bởi đó
là "hậu phương" của mỗi cá nhân người chiến sĩ, "hậu
phương" có yên tâm và đồng tình thì "tiền tuyến" mới vững lòng,
chắc tay súng. Phải nói thêm rằng, hoàn cảnh gia đình tôi khá khó khăn, vợ tôi
một nách bốn đứa con nhỏ dại (đứa lớn 14 tuổi, đứa út chỉ mới 8 tháng tuổi), sớm
hôm tần tảo, vừa thay chồng nuôi dạy con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa cùng
bà con lao động sản xuất, gánh nặng đè lên đôi vai bé nhỏ. Đã vắng bóng người đàn
ông trụ cột 4 - 5 năm trời, nay về thông báo chuẩn bị đi Nam, không hẹn ngày về,
đối với vợ tôi là một điều thật khó khăn. Tôi nhìn thấy rõ nỗi lòng của vợ qua
những dòng nước mắt lặng thầm ướt đẫm ngực áo, những dòng nước mắt thương chồng
ra đi biết ngày nào trở lại, thương mình lại thân cò lặn lội nuôi con một mình
với biết bao nhớ thương, ngóng đợi. Nhưng vợ tôi vẫn không một lời trách móc,
níu kéo tôi ở lại, bao yêu thương đều đọng lại qua bàn tay chăm chút, nâng niu
từng đồ vật xếp vào ba lô cho tôi lên đường và lời dặn lúc chia tay: anh đi nhớ
giữ gìn sức khỏe và năng biên thư về cho mẹ con. Mẹ tôi đã trên 70 tuổi, nắm
tay con trai run run dặn dò: "Con giữ gìn sức khỏe và yên lòng làm tròn
nhiệm vụ Đảng giao, đừng lo cho mẹ, cho vợ con, ở nhà còn có anh em, xóm giềng".
Các anh trai tôi, đang đảm nhiệm các nhiệm vụ ở địa phương nắm chặt vai tôi nhắc
lại: "Chú cứ yên tâm ra đi chiến đấu, ở nhà đã có các anh và bà con chu
toàn thay chú".
Sau Tết Nguyên đán hết phép, chúng tôi tập trung về Lữ
đoàn 338, đơn vị khung đón tiếp anh em tập trung đi chiến trường ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa (hậu cứ của Sư đoàn 330 cũ). Chúng tôi về địa điểm Tứ Trụ,
tôi được biên chế về Tiểu đoàn 4 làm cán bộ chính trị, thời gian ở đây được học
tập chính trị, quân sự, rèn luyện mang vác và bồi dưỡng sức khỏe. Trong các nội
dung rèn luyện học tập, vất vả nhất là việc rèn luyện mang vác. Gạch chỉ được xếp
vào ba lô con cóc, lúc đầu đeo 10 viên sau nâng dần lên, giai đoạn cuối xếp đầy
trong ba lô, hai túi hông, túi giữa để trọng lượng được khoảng 35-40kg, hàng
đêm cứ từ 20-23 giờ đeo ba lô gạch từ Tứ Trụ lên Nông trường đến gần 23 giờ thì
đi về Tứ Trụ, cứ thế đêm này qua đêm khác mưa cũng tập, hai vai bị tím bầm,
lưng bị trầy nhưng chúng tôi đều kiên trì chịu đựng rèn luyện, không ai bỏ cuộc.
Rèn luyện tuy cực nhọc vất vả nhưng vấn đề ăn uống tốt nên sức khỏe ngày một
tăng. Lúc bấy giờ bộ đội ăn chế độ: đại táo ăn 6 hào rưỡi một ngày, trung táo 9
hào, tiểu táo một đồng hai, chúng tôi được ăn hai đồng tư một ngày. Đồng bào miền
Bắc nói chung, Thanh Hóa nói riêng còn nhiều khó khăn nhưng những lương thực,
thực phẩm ngon, tốt, bổ chúng tôi đều được ưu tiên.
Sau hơn 3 tháng học tập rèn luyện, anh em được tổ chức
thành từng đoàn để vào Nam, Đoàn 615 của tôi gồm 4 khung tiểu đoàn, 3 khung tiểu
đoàn bộ binh và 1 khung tiểu đoàn Binh chủng Thông tin. Khung tiểu đoàn Binh chủng
Thông tin gồm toàn anh em cán bộ thông tin của Sư đoàn 304, chi viện cho Ông Cụ
(Khu 9) gồm anh Lê Danh Thụ - Tiểu đoàn trưởng, tôi là Chính trị viên tiểu
đoàn, anh Quang Năm - Tham mưu trưởng, cán bộ trung đại đội gồm các anh: Minh,
Tuấn, Kha, Nghiêm, Giao, Bản, Tám, Thịnh, Diễm... và một số nhân viên kỹ thuật.
Ngày 21 tháng 5 năm 1964 bắt đầu hành quân. Lúc bấy giờ
còn rất bí mật, chúng tôi được ăn mặc như bộ đội thường ngày, hành quân bằng ô
tô từ huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa, đêm đầu tiên nghỉ ở nhà giao tế thành phố
Vinh, ăn uống được hưởng theo chế độ tiếp khách, đêm thứ hai đến Đồng Hới cũng
được ăn theo chế độ chiêu đãi, đêm thứ ba nghỉ ở Làng Ho - chặng đầu của tuyến đường
Trường Sơn. Tất cả những gì còn lại của anh Bộ đội Cụ Hồ đều được để lại thay
trang phục của anh giải phóng quân, bắt đầu trèo đèo lội suối.
Hành quân nhiều ngày sức khỏe giảm dần, bệnh tật phát
sinh, nhất là "sốt rét", chẳng ai thoát khỏi. Chất tươi, rau xanh,
ngay cả gạo cũng thiếu; đường sữa, thuốc lá không còn. Đèo cao, suối sâu, muỗi,
vắt, mưa liên miên, là những nguyên nhân làm cho sức khỏe ngày càng giảm. Có những
cái dốc đứng, chân người leo trước muốn giáp mặt người leo sau, tay chân phải
bám vào các rễ cây hai bên để lên, đường trơn lầy lội, chân đi dép cao su vắt cắn
máu ra cộng với nhớt của vắt chân bước cứ lệch về một bên, bàn chân cứ muốn chuồi
ra ngoài dép, mỗi khi quai dép bị tuột thì nhanh chóng đứng né ra bên đường để
xâu lại quai không làm ảnh hưởng đến tốc độ hành quân. Hành quân đường Trường
Sơn, leo dốc cũng khổ mà xuống dốc cũng khổ, trời mưa càng khổ hơn. Leo dốc mồ
hôi ra nhiều, khát nước mỗi người chỉ có một bị động, khát khô cổ nhưng nước chỉ
để thấm giọng, xuống dốc không may trượt chân lăn từ trên xuống thì thật là
nguy hiểm. Nấu cơm không có củi khô, nấu được nồi cơm chín thật là vất vả, sau
này có kinh nghiệm dọc đường nhặt dăm ba cành củi khô đến nơi có củi nấu cơm,
qua rừng thông đẽo một số gỗ thông để trong ba lô làm nòng (mồi). Chất tươi,
rau xanh, gạo ăn cũng thiếu, dọc đường phát hiện cái gì ăn được là thu hái như
rau tàu bay, rau má, lá bứa, măng... dùng gương, lược cắt tóc, quần áo, bút
máy, đồng hồ, đổi lấy rau xanh, mì, mía, chuối, trứng gà, vịt, thuốc rê, mật
ong…, để cải thiện cho tổ, cho tiểu đội. Có một lần đến chỗ nghỉ gần dân, anh em
vào đổi một đồng hồ được một con lợn khoảng 30-40 cân hơi, ăn tươi cả đoàn và
dành chia cho từng cá nhân ăn những bữa sau. Lần lượt vượt qua đường 14, giao
liên báo chuẩn bị cơm ăn hai ngày rưỡi, vượt qua đường sang trạm bên kia không
nấu được cơm, vì sợ bị lộ, mỗi người chuẩn bị năm nắm mỗi nắm cũng chỉ bằng quả
cam to, nắm thật chặt và nướng thật khô, để phòng cơm thiu chảy nước. Đến rẫy sắn
(mì) cách mạng, sắn bạt ngàn tha hồ đào bới, lấy củ, cây trồng lại, về luộc, nướng,
nạo ra làm bánh, hấp, hầm, làm canh... vấn đề ăn uống nghĩ lại cũng buồn cười. Hôm
ở rây săn 5, 6 anh em ăn một xoong cơm, một xong sắn luộc, một nilon choàng rau
má bụng căng, mồm vẫn muốn ăn; còn sắn nướng, bánh sắn hấp tiếp tục ăn, khi lên
võng nằm, bụng ọc ạch tức khó chịu không nằm được, phải chờ cho tiêu bớt mới nằm
được.
Hơn 3 tháng hành quân, qua bao khó khăn gian khổ, Đoàn
615 đã về tới đích, hoàn thành nhiệm vụ bàn giao cho tổ chức, nghỉ ngơi bồi dưỡng
và chờ công tác. Ở đây được phát lương thực, thực phẩm đầy đủ, có tính chất bồi
dưỡng, có anh ăn một bữa hết vài lon gạo, anh em được phát tiền móc gia đình,
320 đồng tiền ngụy, chúng tôi không có gia đình trong miền Nam cũng được phát
khoản tiền ấy. Sau thời gian nghỉ ngơi bồi dưỡng chúng tôi được điều về Tiểu
đoàn 44 làm nhiệm vụ đảm bảo thông tin cho Bộ chỉ huy Miền, anh Thụ về làm Tiểu
đoàn trưởng, tôi làm Chính trị viên Tiểu đoàn.
Về tiểu đoàn được một thời gian, anh Thụ đưa một bộ phận
thông tin vô tuyến điện, hữu tuyến điện, thông tin vận động đi phục vụ chiến dịch
Bình Giã. Sau chiến dịch anh Thụ ở lại xây dựng thông tin của Sư đoàn 9 bộ binh
và trực tiếp làm Chủ nhiệm, anh Lê Văn Bản xuống làm Chính trị viên Đại đội 2
thay anh Sáu Thu. Riêng tôi vẫn làm Chính trị viên Tiểu đoàn 44. Đến năm 1969
lên làm Trưởng ban chính trị Phòng Thông tin B2.
Sau 17 năm trong quân ngũ, từ năm 1964 vào chiến trường
miền Nam đến tháng 12 năm 1980, nhìn lại chặng đường đã đi tôi rất tự hào, phấn
khởi vì đã thực hiện tốt 4 vấn đề (4 cửa ải) mà đồng chí Chính ủy Quân khu Hữu Ngạn
đã căn dặn.
Thanh Hóa, tháng 11-2008
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét