Tấn Đức Tạo
Tham gia một chuyến đi - do
Đội 101 tổ chức lên thăm quê hương Việt Bắc, cội nguồn của những chiến công của
bộ đội thông tin nói chung và liên lạc đặc biệt nói riêng, chúng tôi: Tấn
"khoèo", Văn Tạo, Ái Đức, Trịnh Hùng phấn khởi lên đường.
Xe đã dừng trước Viện Bảo
tàng Bắc Thái, đoàn tỏa ra ngắm cảnh.
Từ phía trong, hai cô sơn nữ
áo dài xanh quần trắng lướt ra... Các cô cho biết muốn xem hết thì phải cả buổi
sáng, còn đoàn lại muốn "tranh thủ" để kịp đến chợ Chu đúng giờ, đành
phải hẹn: "Khi trở về sẽ vào xem", Tiếc rẻ, mấy "phó nháy"
đã kịp thời làm mấy kiểu trước khi lên xe.
Đã đi sâu vào an toàn khu,
nhiều người ngó nghiêng, nhổm dậy ngắm cảnh. Đây là Bờ Đậu rồi đến Giang Tiên, khu
công nghiệp địa phương của thời kháng chiến.
Đường hơi xấu, xe lắc lư, chồi
lên, sụt xuống làm anh em xô vào nhau suýt xoa cười vui.
Đây là đâu nhỉ? Quán Ông Già
à? Quán Vuông đâu? Những địa danh gắn bó với những người đã từng sống ở An toàn
khu xưa luôn được nhắc tới. Phỏng đoán nhặng xị, thơ ca cứ tuôn ra thật là vui.
Đồn Đu với cây đa cổ thụ đã
là thị trấn đang đà phát triển với những nhà cao đẹp trên đường phố rộng, chẳng
còn là những nhà tranh nứa nhỏ bé ngày xưa vẫn phải ẩn mình dưới bóng cây rừng
để khỏi bị máy bay địch bắn phá.
Đường lên dốc, một bên là
vách đồi cao, bên kia là "khúc sông Cầu nước chảy lơ thơ" với dòng nước
xanh trong vắt, báo hiệu cho đoàn biết: Sắp đến cây số 31 sẽ vào đường đi Quán
Vuông rồi đấy!
Quán Vuông hay quán tròn, ai
đặt tên mà hay nhỉ? Chẳng ai giải đáp được, nhưng các chiến sĩ liên lạc đặc biệt
đều biết đây là đầu nút giao thông có đường tỏa đi các hướng, địa bàn mà các cơ
quan thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các đơn vị
trực thuộc đã từng đóng quân trong suốt thời kỳ chống Pháp.
Đã tới Chợ Chu, thị trấn của
Định Hóa. Những ngôi nhà cao tầng mái ngói đỏ tươi, sáng sủa, đã thay hẳn bộ mặt
u buồn của thị trấn trước kia, với những ngôi nhà xám xịt, những công sở mốc
meo, đổ nát, từ thời "quan Tây" để lại.
Chiều hôm đó, đoàn vào thăm
Kim Sơn, Khuôn Câm - những nơi trước kia Cục Thông tin và một số bộ phận đã ở.
Riêng Văn Tạo tách đi tìm mộ anh Thoa, bạn chiến đấu liên lạc đặc biệt thời
xưa, hiện đang nghỉ đâu đó trong nghĩa trang Chợ Chu, và kết quả tốt đẹp của cuộc
đi thăm đã làm Tấn "khoèo" có thêm nội dung "đối ngoại" với
các đồng chí lãnh đạo của huyện trong buổi chiêu đãi cuối ngày.
Tại hội trường Ủy ban nhân
dân huyện Định Hóa đã diễn ra cuộc gặp gỡ thân tình giữa các đồng chí lãnh đạo cùng
các cán bộ cơ quan huyện với anh chị em trong đoàn. Đồng chí Bí thư huyện ủy
cho biết: nền kinh tế của huyện mới bắt đầu khởi động nên Định Hóa còn nghèo,
nhưng vốn giàu về truyền thống cách mạng với Tỉn Keo, Định Biên lịch sử... nhân
dân các dân tộc Định Hóa đang nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tích to lớn
để xứng đáng với danh hiệu "Anh hùng" mà Nhà nước đã phong tặng. Những
câu chuyện, những kỷ niệm xưa làm nhiều anh chị em xúc động, rưng rưng nước mắt,
những giọng ca tiếng hát đã làm đậm đà thêm tình nghĩa quân dân, tình nghĩa của
thế hệ trước với thế hệ hiện nay, đã gắn bó và đang xây dựng Tổ quốc ngày càng
tươi đẹp hơn.
Kết thúc cuộc gặp mặt, đồng
chí trưởng đoàn Nguyễn Diệp đã trao tặng đồng chí Bí thư huyện ủy bức trướng với
dòng chữ: "Tình nghĩa quân dân sắt son" lưu mãi tình cảm của anh chị
em với An toàn khu đầy ân tình.
Lại qua Quán Vuông để xuống
Yên Thông, nơi đây bây giờ đã là ngã ba đông đúc với các cửa hàng, quán chợ, với
các trường phổ thông cấp II, cấp III và từ đây một con đường trải đá đã chạy
qua Điềm Mạc, Phú Đình tới Tỉn Keo lịch sử. Nơi đây Bác Hồ đã ở và làm việc trong
suốt cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc; cũng từ ngã ba đường này lại có
con đường khác chạy thẳng tới Bảo Linh, nơi đã có Sở chỉ huy của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp và vùng mà các cơ quan thuộc Bộ Tổng tư lệnh đã đóng quân như Bao
Biên, bản Mù, bản Cái, bản Quặng...
Trong hội trường bằng gỗ lợp
lá cọ với những chiếc ghế dài mộc mạc, chúng tôi được đồng chí Bí thư Đảng ủy
xã Thanh Định - một đồng chí còn rất trẻ - giới thiệu tình hình địa phương một
cách khá cặn kẽ.
Bản Cái đây rồi!
Nơi đây đã ghi những dấu ấn
khá đậm nét của Ban liên lạc đặc biệt thời xưa; nơi mà Ban liên lạc đặc biệt được
tổ chức thành Tiểu đoàn thông tin đầu tiên của Quân đội ta vào tháng 5 năm 1950
với cái tên quen thuộc: Tiểu đoàn 36 - nơi mà cơ sở đảng từ tổ L phát triển và
trưởng thành lên chi bộ Hà Huy Tập, không còn phải sinh hoạt ghép với các cơ sở
đảng của vô tuyến điện và hữu tuyến điện nữa. Và đây cũng là nơi "đất lành
chim đậu" đơn vị đã đóng quân với thời gian lâu nhất: từ cuối năm 1949 đến
đầu năm 1951.
Với vẻ thành thạo, Tấn
"khoèo" tiến lên trước, theo sau là anh Diệp - nguyên Tư lệnh Thông
tin, người đã gắn bó nhiều với Liên lạc đặc biệt từ những năm xưa. Với chiếc Camera
trong tay, anh hỏi: "Gốc mít đâu?".
Đảo mắt nhìn quanh thấy một
cây mít ven đồi, chúng tôi bước tới và trong khi anh Diệp lia camera ghi lại
hình ảnh gốc mít đã lưu danh trong sử thông tin liên lạc, thì Tấn
"khoèo" bồi hồi xúc động ghi lời trong băng hình: "Trên quả đồi
này, gốc mít năm xưa tên gọi xóm Bưởi, chính đây là tổng trạm "Xì Bê"
nơi phân phối các công văn, chỉ thị của các cơ quan Bộ, Trung ương, Chính phủ tỏa
đi các nơi trong cả nước. Bên cạnh là Đại đội 29 sáng sáng chào cờ với bài hát
truyền thống "Đại đội 29 oai hùng" của các chuyển đạt viên đã từng đặt
chân trên khắp núi rừng Việt Bắc... bên trong là đất của Tiểu đoàn bộ, nơi mà
các cán bộ kỳ cựu: Bác Văn, Thọ Anh, Đức "điếc"... cùng dàn thành
viên tươi trẻ: Hợp "con", Quý "mọt", Thanh "méo",
Vinh "gầy" đã giúp Ban chỉ huy xây dựng, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt
chức năng "mạch máu" của quân đội trong thời kỳ kháng chiến gian khổ...".
Vì phải phân thân đi với
101, Ái Đức tranh thủ đến thăm mấy người quen cũ. Đến nhà cô Nguyệt nhí nhảnh năm
xưa thì Nguyệt đang nằm viện, đến nhà anh Thượng định gặp chị Minh - vợ anh -
người trước kia có khuôn mặt khá xinh, thì chị Minh lại đi vắng...
Còn lại Tấn
"khoèo", Văn Tạo lững thững đi và đã gặp một số cháu nhỏ. Các cháu ăn
mặc cũng màu sắc, quần áo kiểu cách, mạnh dạn bắt chuyện, chứ không nhếch nhác,
rụt rè như các bậc cha chú thuở xưa.
Đang ngồi nói chuyện trên
sàn nhà anh Bằng, chúng tôi thấy có tiếng chân lên cầu thang, rồi một dáng người
dong dỏng bước vào.
"Biết tin các anh về
chơi, mừng quá lên thăm. Thời các anh ở đây em còn bé, thường theo chị đi xem
các buổi liên hoan do đơn vị tổ chức, vui lắm! Em còn nhớ có anh nào quây quấy,
hay hát bài "Tôi kể anh nghe câu chuyện thu đông giặc Pháp tấn công lên Việt
Bắc... đùng đùng đùng... đoàng đoàng đoàng!". Không biết bây giờ anh ấy
còn sống không và ở đâu?".
Văn Tạo chỉ vào Tấn
"khoèo" lúc đó đang tủm tỉm:
- Chính anh ấy đây!
Thế là anh ta ôm lấy Tấn
"khoèo" vỗ lưng bùm bụp rồi yêu cầu chép cho bài hát ấy...
Đang trên đường ra thăm mộ cụ
chủ nhà trước kia Tiểu đoàn bộ đã ở, chúng tôi bị một giọng phụ nữ từ ngôi nhà sàn
sau rặng tre xanh gọi lại. Thật ngạc nhiên và cảm động: chúng tôi vừa tới mà
sao một nhà hẻo lánh ở cuối xóm đã biết, mà còn gọi đúng tên cúng cơm nữa cơ chứ!
Khi chúng tôi đang thắp
hương trên mộ thì anh bạn lúc nãy lại xuất hiện với chiếc máy ảnh trong tay,
anh xin được ghi lại dấu ấn đầy tình nghĩa này, rồi lại mời chúng tôi về nhà để
cùng bà mẹ già - chính là bà cụ Kiểm ngày xưa - và toàn thể gia đình anh chụp một
kiểu ảnh làm kỷ niệm. Không thể vô tình với giọng nữ lanh lảnh lúc nãy, chúng
tôi tìm đến nơi: một bà đã có tuổi đang ngồi chờ để gặp lại những người trước
kia đã cùng sống trên mảnh đất này. Nào là Khánh, Đức, Bích, Hiên bây giờ ở
đâu? Nào là Khoát "sứt", bác Huyến "già", tiểu đội
"Tương lai"... Ái Đức mà được gặp chắc có bao nhiêu chuyện để kể.
Thăm lại nơi đã tổ chức ngày lễ thành lập Tiểu đoàn và phong quân hàm cho hạ sĩ
quan, binh sĩ, chúng tôi chỉ thấy nhà là nhà, bãi đất rộng xưa nay không còn nữa.
Đang cùng nhau nhắc lại chuyện xưa, chúng tôi lại được tiếp một ông nữa từ
trong ngõ nhỏ chạy ra: tay trong tay mừng rỡ, ông ta nói: "May mắn lắm mới
được gặp lại các anh...".
Tin chúng tôi tới bản Cái đã
được truyền đi khá rộng, phải chủ động đến thăm các nơi quen cũ kẻo "bên
trọng bên khinh" thì thật là không tiện. Tới đâu cũng thấy bừng lên tình cảm
gắn bó thuở xưa. Những tên Lộc "đen", Sơn "sì", Tạo Sinh,
Lê Hia, Lê Cao... và cả tên mấy cô tố nữ cũng luôn được nhắc tới. Dẫn nhau đi
thăm cảnh xưa, có người còn chỉ cho chúng tôi: đây là nhà Thu "đen",
Đậu "Trương Phi", gốc cây này là nơi đặt máy nổ phát sáng trong ngày
thành lập Tiểu đoàn, cả nơi có quán bà Mây, bà Mỹ, nơi mà anh em thường ra để
tìm "chất tươi" sau những chuyến đi mệt nhọc về, cũng được dẫn qua...
Đâu cũng đầy ắp kỷ niệm,
nhưng điều làm chúng tôi hơi buồn là mái đình to với cây đa cổ thụ - nơi xưa
kia đơn vị thường tập trung vào những dịp lễ lớn - nay không còn nữa: hai đợt
bom địch phá trụi, nay chỉ còn là bãi cỏ rộng với nương sắn xanh rờn.
Tình xưa còn khá đậm nhưng cảnh
cũ nay còn đâu?
Tối hôm đó, quanh bếp lửa hồng
chúng tôi có cuộc hàn huyên cùng gia đình anh Thượng, với chú Bằng ở nhà trên xuống,
cùng chú Thu ở bản Piềng vào vì chú nói: "Gặp xe ở ngoài đó, nhìn mãi chẳng
thấy ai quen, được biết là xe từ bản Cái ra, chắc thế nào các anh cũng lên
chơi, phải vào để gặp mặt" tình cảm của chú bé thời xưa đã gắn bó với chúng
ta như thế đó!
Đời sống của bản Cái đã được
cải thiện nhiều, chẳng giàu có nhưng cũng đủ ăn. Nhiều gia đình đã có tivi, xe máy;
con em trong bản cũng được học hành chu đáo, nhiều người đã trưởng thành, thoát
ly đi công tác, góp phần nâng cao dân trí của địa phương, như anh Thượng trước
kia là Việt Minh xã, sau làm tổ chức của khu Việt Bắc, hiệu trưởng Trường trung
cấp kỹ thuật, nay đã về hưu. Con trai anh là bác sĩ có phòng khám chữa bệnh tại
nhà, con gái con dâu đều là giáo viên, các cô Đào, Lựu thời xưa thường
"bám gấu áo mẹ" nay đã là giáo viên cấp III, bác sĩ bệnh viện đa khoa
Bắc Thái, chú Thu trước kia là đứa trẻ chăn trâu, nay đã là kỹ sư khu gang
thép. Trong bản còn có cả chuyên gia sang giúp Lào, có cả hội viên Hội Nhà văn,
mấy vị đại tá và còn có cả chú Toàn thời xưa chân đất cắp sách đi học, nay đã
là đương kim Chủ tịch tỉnh Bắc Thái: những bước tiến, những đổi thay đáng khích
lệ đối với một nơi hẻo lánh của núi rừng thuở xưa!
Trước khi đi ngủ, Tấn
"khoèo" đã trao cho anh Thượng chồng sách mà Trịnh Hùng đã mang từ Hà
Nội lên để nhờ anh chuyển cho thư viện địa phương, gọi là có một chút quà nhỏ
góp vào sinh hoạt tinh thần của anh chị em, bà con bản Cái nhiều gắn bó.
Sáng hôm sau, mặc dù trời
còn mưa rả rích anh Thượng vẫn khoác áo tiễn chúng tôi ra tận Yên Thông vì anh
nói "chẳng biết có dịp nào nữa để được gặp lại nhau".
Vì cầu Quảng Nạp chưa xây,
nước suối lại dâng cao, xe không thể vượt qua được, đành phải quay lại, qua cây
số 31 để tới Đại Từ.
Thế là hết thời cơ qua Sơn
Phú, Quảng Nạp, chẳng được thăm lại quán Ông Già, quán Xôi Vò - nơi mà anh em liên
lạc đặc biệt đã đọng lại bao kỷ niệm nắng mưa của một thời gian khổ trước kia.
Đại Từ đây!
Cây đa đầu đường vẫn hiên
ngang vươn tán cao trên tầm các nhà ngói, bê tông mới mọc. Đại Từ đây đã ghi
bao kỷ niệm liên lạc đặc biệt trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp.
"Đại bản doanh"
liên lạc đặc biệt đã được đặt tại đây để tổ chức chỉ huy các tuyến liên lạc đặc
biệt tỏa đi các nơi.
- Từ đây có con đường đi Cao
Vân, Văn Lãng, vượt qua Đèo Khế sang Tuyên Quang, Phú Thọ, mà quân của ông Lê
Phương Long, Cao Uyên "lùn" gồm các bủ E, bủ Thé... vẫn hàng ngày
thoi đưa để giữ vững liên lạc với Khu 10.
- Từ đây băng qua Lục Ba, Ký
Phú tới Quân Chu, anh em liên lạc đặc biệt đã vượt núi lên trạm Tam Đảo, thẳng tới
Me, thông đường liên lạc với Khu 3, Khu 4 qua các thời đạo trưởng Sĩ Học, Hoàng
Hiên, Đức Luận, Bá Hồi...
- Cầu Huy Ngạc đã bị phá để
chặn vết xe địch nhưng nước lũ sông Công không ngăn được bước chân của các chiến
sĩ liên lạc đặc biệt ta giữ vững liên lạc với Khu 1, Khu 12, Bắc Cạn... dưới thời
các cán bộ Trung Thành, Duy Bình...
Nay cầu Huy Ngạc đã được xây
dựng lại, đường đi Thái Nguyên, Tuyên Quang đã được mở rộng, trải nhựa, xe cộ nhộn
nhịp băng qua, nhưng không biết lán than ở Quân Chu cũng như đường mòn lên đỉnh
Tam Đảo vẫn còn hay đã bị thời gian và cây rừng xóa mất dấu vết?
Quân của đoàn bộ nhớ chăng
Na Mao với vũng suối sâu mà hàng ngày ta thường ra đây vùng vẫy và cả bà mế già
đã từng chăm sóc chúng ta những khi yếu đau thay cho mẹ hiền ở chốn quê xa?
Quên sao được Ba Giăng với
quán Cô Liên hiền dịu mà anh em ta thường vào nghỉ chân sau một chặng đường dài
vất vả? Từ đây có con đường vào Hoàng Nông, xã Chiến Đấu nơi mà tháng 9 năm
1949 đã diễn ra hội nghị tổng kết nghiệp vụ và học tập chính trị, mở đầu cho đợt
rèn cán, chỉnh quân của đơn vị và cũng tại đây, bài hát "Tổng phản công"
hơi lạc quan tếu đã vang lên đầy khí thế ghi lại một kỷ niệm sâu sắc của thời
thanh niên sôi nổi.
Bên kia đường là đất Hạ
Lương, nơi mà tổ L (tổ Đảng của liên lạc đặc biệt) được chọn là tổ Đảng khá nhất
của chi bộ Trần Phú (chi bộ Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy) và tổ đã vinh dự được đồng
chí Tổng chính ủy Võ Nguyên Giáp cùng đứng chụp chung một kiểu ảnh làm kỷ niệm.
Tại Cây Soan của xã Hạ Lương
này, những anh em cũ của Đại đội 29 chắc cũng không quên những ngày từ Trung đội
234 phấn đấu vươn lên để phát triển thành đại đội đầu tiên của tiểu đoàn với
bài ca "Đại đội 29 oai hùng" âm vang một thuở.
Và cũng tại đây, đồng chí
Nguyễn Doanh Lộc - người chiến sĩ liên lạc được nêu danh vì bức điện trước giờ
Toàn quốc kháng chiến - sau cả cuộc đời gắn bó với công tác, chuyển đạt quân
bưu, đã chọn làm nơi an nghỉ cuối cùng, đậm thêm mối tình Kinh - Tày thủy chung
son sắt.
Xuống phía nam một chút, có
Bờ Rạ hậu cứ của Cục Công binh đã một thời bị liên lạc đặc biệt lấn chiếm – nơi
đã xảy ra một cuộc đấu bóng chuyền khá quyết liệt giữa đội của liên lạc đặc biệt
với đội của Cục Công binh lừng danh thời đó, mà đội liên lạc đặc biệt suýt thắng
vì tỷ số lẽ ra là 21/19 nghiêng về đội liên lạc đặc biệt, vì đội công binh đá hỏng
quả cuối cùng, nhưng... "toét"! Tiếng còi ác nghiệt của trọng tài Sơn
"sì" đã thổi phạt Bá Hồi vì đã sờ nhẹ vào lưới, tạo cho đội công binh
lật ngược thế cờ. Thắng được đội công binh lừng danh, ắt đội liên lạc đặc biệt
phải là "siêu lừng danh!".
Còn nhiều nơi nữa, với bao kỷ
niệm, đã đến được tận Đại Từ rồi mà không thăm được các nơi đó (chỉ vì cái tội
đi ăn theo) chúng tôi cảm thấy thiêu thiếu, tiêng tiếc, viết lên mấy dòng cho đỡ
nhớ nhưng lại càng thấy nhớ...
Trong hội trường của Ủy ban
nhân dân huyện Đại Từ, anh chị em trong đoàn bồi hồi kể lại:
- Từ là cô nữ sinh Hà Nội
lên rừng đánh giặc, á hậu Sĩ Nga đã vững maníp phát đi bao lệnh chiến đấu, tới
ca sĩ Hoàng Liên, với giọng trầm ấm bằng bài "Việt Bắc" đã kết thúc
câu chuyện kể về thời đập nứa làm nhà khi gia đình cụ Hoàng Đạo Thúy còn ở xã
Chiến Đấu.
Cho đến các chàng trai
"tóc đã hết màu đen" cũng không kém phần xúc động khi hồi tưởng lại
thời trai trẻ đã dọc ngang trên mảnh đất "lử khử lừ khừ" này, nay đã
qua 50 năm, tóc đã bạc, da đã mồi, răng đã rụng, không khỏi bùi ngùi thương nhớ...
Nhớ những nhà sàn sớm chiều
phảng phất khói lam.
Nhớ nương chè đồi cọ, nhớ
hương lúa nếp ven làng.
Nhớ bếp than hồng, nhớ củ sắn
lùi, nhớ ống cơm lam.
Nhớ những dòng suối trong
xanh mát rượi...
Và nhớ nhất là tình cảm chất
phác chân thành của các mẹ, các chị, của đồng bào các dân tộc trong An toàn khu
đã săn sóc, động viên giúp đỡ anh chị em chúng tôi trong suốt cuộc trường kỳ
kháng chiến đầy gian khổ để cùng nhau làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc
ngày nay.
Qua một đêm mơ màng theo
thiên tình sử của hồ núi Cốc, sáng hôm sau chúng tôi đã có mặt trước Viện bảo tàng
Bắc Thái để chứng minh lòng chung thủy với lời đã hẹn: "Khi trở về sẽ vào
xem".
Thế nhưng... Chờ mãi chẳng
thấy...
Chẳng thấy những tà áo xanh
quần trắng lướt ra.
Mà cũng chẳng thấy những chiếc
khăn piêu sặc sỡ xuất hiện: té ra hôm nay là ngày thứ hai, ngày mà các viện bảo
tàng đều đóng cửa nghỉ thay cho ngày chủ nhật!
Xa dần Việt Bắc
Mờ dần những dải
núi xanh
Chúng tôi nao
nao... nhớ nhớ...
Đăng bởi Quang Hưng
(nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”)