2/11/24

Một chuyện nhớ đời

Quang Cường

Hồi ấy là cuối năm 1953, khi đang công tác ở Đội 101 - Cục Thông tin liên lạc, tôi nhận được lệnh điều vào Đại đoàn 325 ở Bình Trị Thiên. Khi về Đại đoàn lại nhận được lệnh đi phối thuộc chiến đấu với Trung đoàn 66 Đại đoàn 304, mang theo một đài kiểu Pilot là loại máy khá hiện đại trong thời kỳ đó. Đi cùng tôi còn có anh Vũ Duy Chính là học viên cùng tốt nghiệp lớp Thông tin vô tuyến điện khóa 7 lục quân và bốn chiến sĩ quay máy lực lưỡng nhanh nhẹn. Sau khi tìm đến Trung đoàn 66 chúng tôi lại được lệnh đi theo Tiểu đoàn 166 làm nhiệm vụ đặc biệt.

Tiểu đoàn hành quân vào vùng rừng núi phía tây Quảng Bình, càng đi càng thấy vắng vẻ, âm u không có dân cư... Ngày đi, đêm nghỉ giữa rừng, tuy vất vả nhưng ai cũng thấy háo hức vì sớm được làm nhiệm vụ đặc biệt. Hàng ngày, đến địa điểm trú quân, sau khi tắm rửa, ăn uống, bộ đội được nghỉ ngơi, nhưng anh em trong đài lại căng ăngten chuyển nhận điện tới khuya, hết việc mới được nghỉ, số lượng điện chuyển nhận càng nhiều, nhất là điện có độ khẩn cao (thượng khẩn, tối khẩn) báo hiệu sắp có việc hệ trọng... Vào một đêm tối trời đầu tháng 12 năm 1953 đơn vị được lệnh bí mật từ "cổng trời" (nay thuộc huyện Minh Hóa - Quảng Bình) vượt qua biên giới (đèo Mụ Giạ) tiến dọc đường 12 lặng lẽ tập kết ở một cánh rừng Lào.

Lúc này đơn vị mới được phổ biến nhiệm vụ chính thức "phối hợp cùng các đơn vị bạn ở chiến trường (các đại đoàn 308, 312, 316, 351) mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954".

Tiểu đoàn 166 cùng Tiểu đoàn 101 Đại đoàn 325 ở Trị Thiên có nhiệm vụ cùng phối hợp chiến đấu giải phóng Trung - Hạ Lào, thu hút và tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch từ các chiến trường khác sẽ được điều tới, phân tán lực lượng địch tạo điều kiện cho Mặt trận Điện Biên Phủ giành thắng lợi, đồng thời giúp bạn mở rộng vùng giải phóng.

Trận mở màn chiến dịch của đơn vị giành thắng lợi giòn giã, trong 30 phút tiêu diệt đồn Ba Na Phào (trên quốc lộ 13) buộc quân Pháp và ngụy Lào chạy tán loạn. Lập tức đơn vị được lệnh phát triển thắng lợi, liên tục truy kích địch dọc đường 13 và lần lượt tiêu diệt các vị trí Ma Hả Xay, Mường Phìn...

Thời gian đó, nước Lào còn nằm dưới chính quyền Pháp - ngụy Lào, chưa vùng nào được giải phóng. Địch thì ra sức tuyên truyền xuyên tạc nói xấu ta: nào là Việt Minh sẽ trả thù đi tới đâu sẽ giết sạch, đốt sạch nên nhân dân rất hoảng sợ, cứ thấy quân ta đến là bỏ chạy. Vấn đề phong tục tập quán, tôn giáo lúc đó cũng còn rất phức tạp.

Đang trên đường hành quân đuổi đánh địch, bất ngờ xảy ra một sự cố quan trọng: một đêm dừng lại giữa khu rừng khộp ở Trung Lào, triển khai đài làm việc như thường lệ thì đài bị hỏng.

Tình huống lúc này rất gay go. Hàng ngàn con người trong đơn vị khi rời xa Tổ quốc hàng ngàn cây số sang chiến đấu bên nước bạn, giữa vùng địch còn chiếm đóng, dường như chỉ còn một phương tiện liên lạc với Trung ương, với các mặt trận phối hợp, nhất là chiếc đài vô tuyến điện 15W. Bây giờ đài hỏng mất liên lạc, thì khác gì con người mắt mù, tai điếc.

Giữa lúc đó lại có tin báo cáo về Tiểu đoàn: đơn vị phục kích trên đường 13 đêm nay vừa chặn đánh tiêu diệt một đoàn 6 xe nhà binh địch, trong đó có một xe chở toàn cố đạo, bà xơ người Pháp. Chính sách đối xử với họ làm sao đây? Thả hay bắt làm tù binh? Giá như còn đài vô tuyến điện của Trung ương là xong, nhưng...

Các đồng chí trong Ban chỉ huy liên tục sang hỏi han, động viên anh em trong đài và tỏ vẻ rất lo lắng, sốt ruột; toàn đơn vị biết làm sao đây ở giữa núi rừng Lào xa xăm, lạ lẫm, heo hút này?

Hiểu rõ tâm trạng của người chỉ huy, suốt đêm đó tôi nghiền ngẫm, kiểm tra kỹ từng mạch điện, từng bóng đèn, nguồn điện nhưng vẫn vô hiệu.

Tuy không phải là cơ công sửa chữa vô tuyến điện nhưng tất cả phụ tùng dự trữ mang theo: kháng, tụ đều đã được tháo mối hàn để thay mới. Tất cả các thiết bị từ máy Ragonô, dây dẫn đến các mạch điện chi tiết trong máy thu phát đều được kiểm tra rất kỹ. Nguồn điện pin cũng được thay đổi nhưng vẫn vô hiệu.

Mệt mỏi, đau đầu, lo lắng đến mất ăn, mất ngủ. Anh em trong đài cũng rất thông cảm, im lặng, không ai dám cười to.

Qua một đêm và một ngày căng thẳng đầu óc, chính bản thân tôi cũng đã bắt đầu thấy hết hy vọng. Thế nhưng trong ý nghĩ vẫn còn quyết tâm, tuy mỏng manh nhưng "còn nước còn tát". Lúc đó là gần 18 giờ 30 phút (tôi nhớ rất rõ vì mọi khi vẫn mở nghe đài Bắc Kinh vào giờ này); tôi lại giở hộp đèn dự trữ ra lần cuối cùng. Không hàn không thay, không sửa gì nữa, tôi lần lượt ngồi tỉ mẩn thay đổi từng bóng "chân tăm" và ấn mạnh chân đèn. Bỗng nhiên bật ra một âm thanh trong máy. Hy vọng rồi! Tôi kêu vội lên và gọi anh em trong đài chạy lại quây quanh tôi.

Chỉ trong chốc lát, tin vui được báo cáo lên Ban chỉ huy, rồi nhanh chóng được loan báo ra khắp đơn vị, thật đúng là vui như ngày tết.

Mọi người ôm chầm lấy tôi, thủ trưởng đơn vị xuống niềm nở bắt tay chúc mừng và biểu dương tại chỗ.

Còn tôi, không biết nói gì hơn, lúc này mừng quá nên xúc động tột độ, đôi dòng nước mắt tự nhiên ứa ra. Có lẽ đây là một kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời làm báo vụ của tôi.

Sau này, cứ mỗi khi nhớ lại quá khứ cách đây 50 năm, tôi không thể quên một bài học nhớ đời cho riêng tôi: sống phải luôn luôn lạc quan và làm việc gì cũng phải có quyết tâm cao, không bao giờ được nản lòng.

Trong tuyệt vọng vẫn luôn còn tia sáng của hy vọng!

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét