7/11/24

Kỷ niệm một thời công tác ở Đội Vô tuyến điện 101

Dương Quốc Hưng - nguyên Chính trị viên Đội 101

Tháng 5 năm 1951 sau thời gian học tập quân sự ở Trung Quốc, chúng tôi hơn 100 cán bộ trung cấp trở về nước. Lúc đó là thời điểm ở trong nước đã mở nhiều chiến dịch, thắng lợi nhất là chiến dịch Biên Giới. Tôi được phân công về Cục Thông tin liên lạc và được cử làm phó phòng chính trị. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình cơ quan và các đơn vị trực thuộc, tôi đã có nhiều ấn tượng tốt đẹp về Đội vô tuyến điện 101...

Một người đội trưởng, trẻ, khỏe, cần mẫn trong tay lúc nào cũng có cái vôn kế, mỏ hàn, xông xáo xuống đài, ít khi ở văn phòng. Một đội ngũ trưởng đài, báo vụ viên nam có, nữ có, nhanh nhẹn có năng lực và văn hóa và đặc biệt có nhiều khả năng văn nghệ. Mỗi lần tổ chức các tối văn nghệ nội bộ toàn Cục, Đội 101 bao giờ cũng có tiết mục đặc sắc. Tôi còn nhớ tiết mục đồng ca có nhạc đệm, nhiều nhạc cụ dân tộc do một người biểu diễn (đồng chí này là em anh Lê Hoan đã công tác với tôi). Còn với tiết mục chèo "Qua ngũ quan trảm lục tướng" do anh Lê Thọ - trưởng phòng hành chính biên soạn đã làm nổi đình nổi đám ở hội diễn văn nghệ của Bộ Tổng Tham mưu, được Phòng Chính trị Bộ Tổng Tham mưu đánh giá là 2 tài danh của đêm biểu diễn.

Khi Cục đã ổn định tổ chức, bước vào chiến dịch Hòa Bình, các phòng ban, đơn vị đều tách ra một bộ phận đi chiến dịch, khi xong chiến dịch lại rút quân về đơn vị, không còn vá víu như các chiến dịch trước. Ở Ban 3 chiến dịch có anh Đôn và anh Tình, các cán bộ tham mưu – anh Bội, tôi phụ trách bộ phận chính trị. Hành chính – anh Phạm Khổng Giai, vật liệu anh Ngô Đức Thọ, đơn vị thì 101 - anh Nguyễn Diệp, anh Trần Sơn - 303 và các cán bộ giúp việc. Các chiến dịch tiếp sau, chúng tôi lại vẫn gặp nhau như duyên trời định.

Mỗi lần hành quân đi chiến dịch tôi được chỉ định làm chỉ huy trưởng và anh Phạm Khổng Giai là phó. Các đơn vị khác đến chỗ trú quân thì được nghỉ ngơi lại sức, anh em 101 lại tiếp tục làm liên lạc. Tiếng Ragonô, tiếng tích-tè liên tục, tiêu biểu như chiến dịch Hòa Bình thông tin có nhiều thành tích. Đường liên lạc điện thoại ngầm qua sông Đà của 303 thành công, vô tuyến điện 101 giữ vững liên lạc với chiến trường. Bộ phận chính trị của Ban 3 chiến dịch tổ chức Đại hội thi đua sôi nổi, tiến hành từ dưới lên trên, Đại hội đã chọn được 7 chiến sĩ thi đua trong đó có Đội trưởng 101 Nguyễn Diệp (cơ quan có anh Trần Đô, 303 có anh Thơ, anh Cặng...). Một cái tết rất vui vẻ hào hùng ở chiến dịch. Kết thúc chiến dịch, nhiều đơn vị được Bộ tặng Giấy khen trong đó có 101. Riêng với tôi không những yên tâm nghề nghiệp mà còn có phần phấn khởi với kết quả bước đầu.

Tháng 4 năm 1952, Cục Thông tin liên lạc qua mấy lần chỉnh huấn chính trị, công tác phát triển Đảng có nhiều tiến bộ. Tổng cục Chính trị quyết định thành lập Đảng ủy Cục Thông tin liên lạc trực thuộc Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu thay cho Liên chi trước đây. Đại hội đại biểu họp và cử ra Ban chấp hành gồm 7 người, do đồng chí Hoàng Bửu Đôn làm Bí thư. Tôi có vinh dự được bầu là Đảng ủy viên. Đảng ủy có sự phân công: Tôi được phân công xuống 101 làm chính trị viên, tôi thực sự vui khi nhận nhiệm vụ mới này vì nó rất hợp với "thói quen của tôi" không thích cơ quan. Đơn vị lúc tôi đến có một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ rất đầy đủ. Báo vụ chủ nhiệm: ông Thanh, cụ Thảo, anh Dương Châu. Liên đài trưởng và trưởng đài có các anh: Hoàng Nguyên Phương, Hanh, Dần, Mao, Thoại, Cẩm Điện và một đội ngũ báo vụ trẻ như: Kỳ, Tuấn, An và đặc biệt là 6 cô mà các chàng trai các Cục hay "thăm hỏi". Anh em quay máy phục vụ khỏe, năng nổ. Tuy nhiên, Đội 101 khác với các đơn vị chiến đấu ở chỗ có nhiều chất "cậu" còn tôi thì bỡ ngỡ về nghiệp vụ và cách làm việc theo ca kíp. Tôi được các đồng chí Diệp, Thanh tận tình giúp đỡ dần dần cũng rút ra được cách lãnh đạo một đơn vị kỹ thuật. Lúc này đã có một số điện đài của bạn giúp cho nên máy móc không quá thiếu thốn. Trưởng đài báo vụ nghiệp vụ tinh thông nên công việc trôi chảy, nền nếp làm việc được cải tiến cho phù hợp với thời chiến, đỡ cồng kềnh, điện đọng rất ít. 101 luôn luôn là một đơn vị được Cục biểu dương. Sau cuộc chỉnh huấn chính trị phân biệt "bạn - thù" anh em hăng say học tập và làm việc, nội bộ đoàn kết. Là đội trưởng, anh Diệp hoàn toàn phụ trách phần chuyên môn, nay việc chỉ đạo công tác vô tuyến điện toàn quân trên Cục thiếu cán bộ có năng lực, anh Diệp phải kiêm nhiều phần việc. Từ đó tôi với sự giúp đỡ của anh Thanh, Phương làm cả công tác chuyên môn khi anh Diệp vắng đơn vị.

Cuối năm 1952 chiến dịch Tây Bắc, Đội 101 ra quân hùng hậu, với 6 đài vô tuyến điện tốt trong đó đã có đài 694 cũng gọn nhẹ. Đội ngũ trưởng đài, báo vụ được lựa chọn "tinh nhuệ", tôi lúc này vừa là chính trị viên Đội 101 kiêm nhiệm công tác của Ban 3 chiến dịch, thường trực của bộ phận Đảng ủy tiền phương (anh Hoàng Bửu Đôn, anh Trần Sơn và tôi). Chiến dịch Tây Bắc hành quân dài, gian khổ, mưa nhiều, anh em vai đeo nặng, dò dẫm mà đi, có đêm chỉ đi được 10-15 km, đơn vị vừa hành quân vừa giữ vững liên lạc. Kết thúc thắng lợi trở về không ai nghĩ rằng Thu Đông 1953 vẫn trên con đường ấy đơn vị lại phục vụ chiến dịch Thượng Lào giải phóng Sầm Nưa.

Tuy về Cục muộn mằn, nhưng tôi được vinh dự phục vụ Ban 3 chiến dịch cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ - chiến dịch cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm và đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Mùa thu năm 1953, chiến dịch được chuẩn bị sớm hơn mọi năm. Sau khi nhận nhiệm vụ Cục giao, Ban chỉ huy đội họp cấp tốc bàn kế hoạch (lúc này có thêm anh Phụng, anh Trử làm đội phó phụ trách HCQT, chọn máy, chọn người, dồn mạng, chuyển mạng...). Anh Diệp đi trước với bộ phận Bộ Tổng Tham mưu. Tôi cùng anh em đi sau, 101 xuất quân với 6 đài tốt, vẫn những trưởng đài, báo vụ quen thuộc với chiến dịch như: Hoàng Nguyên Phương, Đinh Văn Quyên, Dần, Giai, Mao, Lục Văn Toàn, báo vụ viên Kỳ, Tuấn, An... chỉ có một điều mới là có thêm hai cô nữ Mai Lộc và Phương Lan. Hành quân từ Yên Thông bằng ô tô, anh em cực kỳ phấn khởi và không khỏi ngỡ ngàng. Được đi ô tô đường phá hoại mới sửa lại, xe xóc nhồi lên nhồi xuống, một đêm chỉ đi được 70-80 km, anh em vẫn vui vẻ nói cười. Chỉ có cô Lộc say xe mệt lử nhưng vẫn cố gắng đi được tới đích. Vì vấn đề lương thực khó khăn nên biên chế gọn nhẹ, mỗi đài chỉ có 5 người: 2 đồng chí quay máy và 3 đồng chí báo vụ kể cả trưởng đài. Sau còn giảm đi hơn nữa. Trước khi chiến dịch mở màn, công việc nhiều, báo vụ có lúc phải làm 2 ca liên tục, ăn uống thiếu thốn; làm việc nhiều nhưng anh chị em vẫn vui tươi phấn khởi, không một chút tỏ ra trễ nải. Tôi còn nhớ có một lần tác chiến đưa sang một tập điện khẩn cấp chuyển cho đơn vị (tôi quên tên) giữa lúc đêm khuya. Tín hiệu thường rất nhỏ khó bắt, phiên ấy cô Mai Lộc lên máy. Tôi xuống đài theo dõi, phấp phỏng chờ đợi, mệt quá ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Một tiếng nói nhẹ nhàng làm tôi giật mình tỉnh giấc: "Tây ơi mày chết rồi" đó là tiếng nói của cô báo vụ mảnh mai Mai Lộc sau khi đã chuyển xong tập điện. Tiếng nói bộc lộ một niềm tin tất thắng, một tinh thần trách nhiệm cao. Tôi hết sức cảm động, nhẹ nhàng đến lay ông cán bộ tác chiến xuống ốp đài với hai tiếng "xong rồi". Có lần chuyển gấyp điện hỏa tốc cho một đơn vị đang hành quân giữa lúc không có giờ liên lạc với họ. Lệnh là lệnh, làm sao đây. Theo kinh nghiệm cũ, Hoàng Nguyên Phương đã dò được sóng và giờ làm việc của đơn vị đó với cấp dưới, dùng máy Pilot chèn sóng chuyển ngon lành ca bức điện. Thật sung sướng và yêu mến cán bộ, chiến sĩ của mình. Mùa đông Tây Bắc về đêm sương mù dày đặc, đơn vị lại đóng quân trong thung lũng, ban đêm tín hiệu rất yếu không làm liên lạc được, có lúc điện đọng, lên giao ban thật ngại gặp cấp trên.

Trước lúc mở màn chiến dịch, chỉ huy sở của Bộ chỉ huy chiến dịch đóng ở Mường Phăng. Địch lúc này cho máy bay thám thính và ném bom xung quanh cứ điểm Điện Biên Phủ, bom cứ rơi nhích về phía Mường Phăng. Đề phòng địch dùng máy dò phương vị dò cụm điện đài của ta phát sóng, trên lệnh cho 101 chỉ để lại 2 đài bên cạnh Bộ chỉ huy để liên lạc với các đơn vị tác chiến ở Điện Biên Phủ, số điện đài còn lại triển khai ở Mường Ẳng cách xa 10 km liên lạc với chiến trường xa và hậu phương Bộ để đánh lạc hướng của địch về vị trí Sở chỉ huy chiến dịch. Mường Ẳng là một bản có địa thế rất đẹp, ở đó anh em đào hầm để máy, làm lán ở. Điều khó khăn là chuyển nhận về Ban cơ yếu sao cho nhanh chóng, anh em có sáng kiến tổ chức liên lạc chạy chân hai đầu, hẹn giờ gặp nhau ở giữa đường trao điện nhận, tiếp điện huyển đi rút ngắn thời gian. Đời sống anh em vốn đã hó khăn nay tách ra xa, độc lập tự túc càng khó khăn hơn. Món bi chuối (hoa chuối rừng) và rau tàu bay là hai món cơ bản của bữa ăn. Một buổi sáng, nghe tiếng anh em la "bò xa xuống hầm", tôi vội chạy ra xem. May sao không phải là bò mà là một con nai ăn đêm xa xuống hầm, gẫy chân không lên được. Thật là của trời cho, anh Tường quản trị của đội đã tổ chức một bữa thịnh soạn cho anh em, không quên gửi biếu cấp trên mấy cân. Tình hình ổn định, đơn vị lại trở về đóng quân ở Mường Phăng. Chiến dịch chưa mở màn, vẫn còn đang kéo pháo ra. Tết đến cấp trên chỉ thị tổ chức Tết cho anh em thật chu đáo. Mỗi người được 400 g thịt và 0,5 kg gạo nếp. Tuy thiếu thốn phương tiện, anh em vẫn gói được bánh trưng, làm được chả. Về tinh thần có tối văn nghệ rôm rả, tờ bích báo của đơn vị phản ánh sinh động cuộc sống của đơn vị. Hai câu thơ trong bài thơ của tác giả nào đó tôi vẫn nhớ:

Đất trời có mấy mùa xuân

Vui xuân chiến dịch mấy lần đời ta.

Câu thơ chưa chải chuốt nhưng nói lên được hào khí của anh em lính vui xuân ở chiến trường.

Tối 30 Tết, sau khi đã làm tròn phận sự, anh Hoàng Xuân Vượng, anh Nguyễn Diệp, anh Đào Ngoạn và tôi ngồi chơi tú lơ khơ dưới một ngọn đèn con suốt đêm cho đến gần sáng, giao thừa lúc nào cũng không biết. Những giờ phút gợi nhớ, gợi cảm này, không ai nói với ai về chuyện riêng tư gia đình mà say sưa với quân bài. Phải chăng đây cũng là phương pháp tự ổn định tư tưởng cho mình.

Chiến dịch kéo dài, sức khỏe của một số anh em giảm sút, anh Tường hết sức xoay trở, đời sống đỡ khó khăn phần nào. Anh Hoàng Nguyên Phương có mối quan hệ bạn bè với cô nào đó ở Ban Giao tế nên thỉnh thoảng cũng chạy vạy được cân đường, hộp sữa bồi dưỡng cho anh em đau yếu.

Chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, thông tin liên lạc có góp phần to lớn. Đội 101 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giữ vững liên lạc giữa Bộ chỉ huy chiến dịch với Trung ương Đảng, các chiến trường xa và các đơn vị chiến đấu ở chiến trường chính. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được khen thưởng trong đó có đồng chí Nguyễn Diệp được Bộ Tổng Tham mưu tặng Bằng khen.

Lợi dụng lúc trao trả thương binh địch, ta cấm máy bay địch hoạt động trong bán kính nhất định, cơ quan của Bộ chỉ huy trong đó có Đội 101 hành quân bằng ô tô trở về giữa ban ngày, lòng tràn đầy niềm vui chiến thắng.

Sau khi tiếp quản Thủ đô, đơn vị đóng tại Cột Cờ (Viện Bảo tàng Quân sự Việt Nam bây giờ). Để thích ứng với nhiệm vụ mới, tổ chức của Cục được sắp xếp lại và phát triển thêm các đơn vị mới, tôi được cử về làm chính trị viên Tiểu đoàn 132 cùng với ảnh Phùng Minh Bội vào quãng đầu năm 1955, trao lại nhiệm vụ lãnh đạo đơn vị cho anh Phụng. Hơn 3 năm, với 4 chiến dịch lãnh đạo đơn vị 101 so với quá trình phục vụ của tôi không dài, nhưng những ngày tháng ấy đã để lại trong tôi những kỷ niệm vui buồn không thể nào quên. Ngày ấy còn là một thanh niên hoạt bát, mỗi khi hành quân, anh em còn ngại không bước kịp; nay tôi đã là một ông già 76 tuổi lẩm cẩm khi nhớ, khi quên.

Mỗi lần gặp lại anh chị em Đội 101, tôi vui mừng vô hạn. Có nhiều anh em nhất là những anh em quay máy phục vụ tôi còn nhớ tên, vóc dáng, tính tình mà hiện nay không biết ở đâu, còn hay mất? Giá mà được gặp lại một lần. Có những đồng chí đã không còn nữa: cụ Thảo, anh Thanh, anh Châu, anh An. Tôi xin phép thắp nén hương lòng nghiêng mình trước vong linh các đồng chí ấy. Cuộc sống của một con người biết bao kỷ niệm, có cái lâu rồi cũng quên nhưng những cái sâu sắc sẽ lắng đọng mãi trong lòng tôi, đó là những ngày tháng tôi công tác ở đơn vị vô tuyến điện 101 Cục Thông tin liên lạc.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”) 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét