6/11/24

Vài chuyện nhỏ của một thời làm liên lạc đặc biệt miền Nam

Nguyễn Hải

1. Một thời làm liên lạc đặc biệt miền Nam.

Tôi nhập ngũ tháng 7 năm 1947, cũng vừa mới 17 tuổi, cái tuổi "bẻ gẫy sừng trâu", làm không biết mệt, không ngại gian khổ hy sinh. Tôi được anh Đỗ Khắc Quảng tức bác Văn nhận từ Ban giao thông công đoàn Hà Nam về tổ chức thành trạm liên lạc. Lúc đó trạm có bốn người, anh Văn là trạm trưởng, anh Thụ "rụt" vì cổ anh hơi rụt, anh Sâm và tôi, có nhiệm vụ vừa tìm đường vừa chuyển công văn, tài liệu đến Khu 3. Còn anh Sâm "lé" vì chưa biết đi xe đạp nên làm quản lý và chạy công văn nội bộ. Anh em chúng tôi sống với nhau thân ái. Ngoài công tác thì làm báo. Trạm chúng tôi có tờ "Gió biển". Tôi chữ đẹp lại kẻ chữ và vẽ cũng được nên đảm nhiệm "ấn loát". Cơm nước không phải nấu đã có chủ nhà giúp, hàng tháng ăn bữa nào thì trả tiền bữa ấy. Tôi và anh Thụ thay nhau chuyển công văn, tài liệu sang Khu 3. Lúc đầu đường sá chưa biết nên từ Cống Khê qua chợ Đại, Đồng Văn qua đò Hòa Mạc sang Hưng Yên qua Tiên Lữ đến Bến Hiệp rồi về huyện Quỳnh Côi đến Khu bộ Khu 3, chúng tôi vừa đi vừa hỏi đường. Những lần đi công tác có hôm phải chịu đói, khát, phải dắt xe đạp dưới trời nắng do săm xe vá nhiều, trời nắng cứ bị xì hơi, đi 5-7 cây số mới gặp một chỗ vá săm hoặc một quán bán nước kèm vài tấm bánh. Những ngày nắng đã khổ, những ngày mưa còn khổ cực hơn. Thời kỳ đó tôi cũng mới lớn, tuy sức khỏe cũng khá nhưng với cái xe đạp đờ-mi-công-pho khá nặng cùng đôi lốp to bè và săm thì vá chằng vá đụp lại đèo bị tài liệu 5-10 kg cứ lái lượn qua các hố hoa mai của đường chống xe cơ giới địch trơn vì đất bùn, không lái giỏi thì ngã xuống hố không vỡ đầu cũng mẻ trán. Không những vậy còn phải vác xe qua các ụ đất to như cái nhà có cắm các cọc sắt án ngữ trên đường vừa trơn vừa khó, vác xe cũng toát hết mồ hôi, bủn rủn cả người. Khó khăn, cực khổ như vậy nào đã thấm tháp gì mỗi lần địch chuyển quân qua Hưng Yên, chúng bắn pháo bừa bãi, càn quét, tôi vừa phải bảo vệ công văn tài liệu, vừa phải đi tìm dân quân tự vệ giúp đỡ, nghe ngóng tình hình địch để khi có cơ hội là đi được ngay. Chúng tôi không chỉ bảo đảm đưa công văn, tài liệu theo đúng quy định mà thường xuyên vượt thời gian từ nửa ngày đến một ngày, với công văn hỏa tốc hẹn giờ cũng vậy. Cứ liên tục như thế, có tháng chúng tôi đi trên đường 25-27 ngày, người cứ đen như củ tam thất. Thời kỳ đầu của kháng chiến chúng tôi sống vô tư, không hề kể công, chỉ nghĩ một điều đơn giản là trên giao nhiệm vụ phải cố gắng hoàn thành để kháng chiến chóng thành công.

2. Bảo đảm công văn tài liệu khi địch nhảy dù.

Tôi làm liên lạc một thời gian thì được cấp trên điều về làm văn thư của đại đội. Đại đội đóng ở Mỹ Đức – Hà Đông, bên cạnh sông đối diện là thị trấn Vân Đình. Các cán bộ đại đội đều đi họp xa, ở nhà chỉ còn tôi và một liên lạc. Đúng lúc đó, vào buổi sáng sớm, Pháp nhảy dù xuống Vân Đình định chụp bắt cán bộ cao cấp của ta. Trên trời máy bay chiến đấu địch quần đảo bắn phá, bảo vệ cho các máy bay vận tải thả dù. Ở dưới đất bộ đội ta thấy địch bất ngờ nhảy dù liền vừa hành tiến vừa đặt 12 ly 7 bắn liên hồi. Tiếng súng, tiếng máy bay địch ầm vang, nhân dân trong vùng bỏ chạy tán loạn. Đồng chí liên lạc đang tắm ở sông, thấy địch bắn phá, nhảy dù cũng bỏ chạy không về. Tài liệu, quân trang, quân dụng thì nhiều, trong hoàn cảnh đó, tôi cùng chủ nhà cất giấu rồi vội thu tài liệu cho vào bị gánh chạy đi tìm đơn vị và xin người giúp trở về chuyển hết các thứ về nơi an toàn.

3. "Đá thử vàng, gian nan thử sức".

Thời gian tôi làm cộng tác viên, được giao nhiệm vụ đi tìm đường bí mật để phòng khi bị địch phong tỏa đường liên lạc thì có đường dự bị không để gián đoạn liên lạc. Phương tiện chỉ có bản đồ và cứ theo đó tìm ra đường, tính toán quãng đường để định thời gian đi và bố trí nơi nghỉ, quan hệ với địa phương giúp đỡ dẫn đường, cho ăn uống bảo vệ khi cần thiết. Có lần đi, tôi bị lạc trong rừng, bụng đói, trời lại tối, tiến thoái lưỡng nan. Tôi tìm được bụi nứa, sẵn dao và bật lửa liền làm hai bó to, đốt một bó còn một bó kéo lê dưới đất để phòng có hổ thì nó sợ chạy đi. Càng đi càng sâu vào rừng trong đêm hoang vắng, một mình cô độc, thỉnh thoảng lại có tiếng sột soạt của thú rừng chạy làm cho tóc gáy lại dựng lên. Tuy sợ nhưng tôi lại tự động viên mình "Đá thử vàng, gian nan thử sức", cứ đi may ra có thấy nhà dân thì vào xin nghỉ, xin ăn và hỏi đường rồi mai đi tiếp. Quả nhiên tôi không phải ngồi ngủ trên cây mà nhìn từ xa thấy đốm lửa nhà sàn. Tôi cứ chiếu đó đi vào cũng khá vất vả. Sau khi được ăn và được biết là đã đi lạc khá xa nên khi ngủ tuy rất mệt vẫn cứ giật mình thon thót vì chưa tan hết nỗi sợ bị lạc trong rừng.

Sáng hôm sau tôi phải nhờ người dân dẫn đường mới ra khỏi rừng và tiếp tục công việc của mình là tìm đường liên lạc dự bị.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”) 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét