7/11/24

Một cuộc hành quân đáng ghi nhớ

Mạnh Dung - nguyên học viên lớp Lục quân Thông tin khóa 7

Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn ở trên một vùng đất thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây có nhiều đồi núi rất thuận lợi cho việc luyện tập ở thao trường.

Tháng huấn luyện tân binh trôi qua, chúng tôi được lệnh tập trung để biên chế chính thức vào đơn vị mới, chuẩn bị cho một cuộc hành quân dài...

Đoàn chúng tôi chia thành 3 khối: khối Không quân, khối Hải quân, khối Lục quân. Tôi được biên chế vào khối Lục quân. Bọn học trò chúng tôi xa nhau từ đấy. Khối Lục quân lập thành 1 tiểu đoàn, được giao nhiệm vụ hành quân sang đất bạn để học tập.

Chuẩn bị cho cuộc hành quân xa cũng chẳng có gì. Ba lô thì mỗi người một kiểu: cái bằng da bò, cái bằng vải may theo hình chữ nhật buộc bằng dải vải, cái đan bằng mây. Quần áo mỗi người một bộ mặc trên người, một bộ bỏ trong ba lô, nhiều người không có chăn màn. Chúng tôi không mang theo vũ khí, chỉ mang theo lương thực để ăn. Chúng tôi lên đường hướng ra phía tây lên Hồi Xuân – La Hán sang đất Hòa Bình. Rừng tiếp rừng bạt ngàn. Mấy ngày đầu, được đi trên đất lạ, chưa bao giờ được nhìn thấy núi rừng trùng điệp, tôi cảm thấy háo hức, thỏa tính mạo hiểm của mình. Cứ thế, ngày đi, đêm nghỉ, chúng tôi xuyên từ rừng này qua rừng khác. Đôi chân chưa bao giờ phải đi xa, phồng lên, dập nước, đau rát. Có người không chịu nổi, bỏ cả dép lốp đi đất. Suốt ngày đi trong rừng nhiều hôm trời mưa, quần áo ướt đẫm rồi lại khô. Lương thực mang theo cạn dần. Có hôm hành quân đến nơi nghỉ chúng tôi chia nhau từng hạt ngô rang, uống mỗi người mấy bát nước chè "lá ổi" rồi lại tiếp tục lên đường.

Cái đói, cái khát giày vò chúng tôi. Khi dừng chân nghỉ ở một bản Mường, tiểu đội tôi ngồi trên nhà sàn thấy trong nương của gia đình nọ có mấy cây mít, có quả chín rơi xuống đất vỡ ra từng múi, múi mít đã nát, mùi thơm quyến rũ nhưng không ăn được nữa. Anh em bảo tôi xuống lấy hạt đem rang ăn. Khi cả tiểu đội đang quây quần ăn hạt mít ngon lành thì anh K... đến. Anh cất tiếng hỏi:

- Ai là người lấy hạt mít rang ở đây?

Mọi người nhìn nhau lo sợ. Tôi vội đứng dậy:

- Báo cáo thủ trưởng, tôi ạ!

- Đồng chí cho tất cả hạt mít vào nồi mang xuống sân, tay bê nồi đứng nghiêm. Không được nghỉ khi chưa có lệnh của tôi...

Ngoài trời mưa mỗi lúc một to. Tôi đứng nghiêm, nước mưa và nước mắt hòa trộn với nhau. Từ đó, tôi mới thấy thấm thía kỷ luật quân đội: "Không lấy cái kim sợi chỉ của dân".

Chúng tôi đến Đoan Hùng - Phú Thọ rồi vượt sông Lô sang đất Tuyên Quang. Núi rừng trùng điệp, u minh. Chúng tôi len lỏi đi giữa rừng cây rậm rạp. Như ngửi thấy hơi người, từng đám vắt đứng thẳng dậy, cong mình lao thẳng vào chúng tôi... Muỗi rừng bay như đàn ong, ở đây có rất nhiều suối... Qua bao ngày hành quân gian khổ, sức khỏe chúng tôi giảm sút. Anh em Lục quân chúng tôi đã có người bị bệnh sốt rét quật ngã. Có một lần anh Minh lên cơn sốt, không đi được, không có cáng, chúng tôi đặt anh nằm ngửa, rồi lấy bao gạo lồng qua người anh, chặt một đoạn cây bương làm đòn, xỏ qua bao gạo trên bụng anh, thay nhau khiêng anh qua đèo, qua suối. Vì sức đã kiệt, không có thuốc điều trị, anh đã nằm lại vĩnh viễn trong khu rừng này. Giờ đây không biết người thanh niên thành phố Vinh ấy đã được đưa về cùng đồng đội, nằm nghỉ ở nghĩa trang quê nhà chưa?

Gần một tháng hành quân trong rừng xanh, chúng tôi được dừng chân nghỉ tại vùng đất thuộc tỉnh Thái Nguyên. Nơi đây cả ngày được thấy bầu trời trong xanh, không khí mát lành. Từng đồi chè bậc thang, lá xanh biêng biếc nối tiếp nhau như những làn sóng biển quê tôi, trông rất đẹp mắt.

Cơ thể tôi yếu dần. Máu ở hai lỗ mũi thường xuyên chảy ra nhất là vào buổi sáng. Tôi bị mất máu khá nhiều, người xanh xao. Tôi lo quá, không biết mắc bệnh gì đây? Không biết còn đi tiếp được nữa không? Gần đấy, có trạm quân y, tôi được đơn vị gửi vào điều trị. Một đêm khuya, ngoài trời sấm sét nổi lên ầm ầm, rồi cơn giông tố ập đến, tôi đang nằm nghiêng trên giường thì cảm thấy cái gì vướng ở lỗ mũi, tôi sờ tay vào thấy một con vật gì lành lạnh thụt vào. Tôi quay người nằm nghiêng sang bên khác, một lúc lại thấy nó thò ra. Tôi hốt hoảng, vội dậy gọi cô y tá trực, đốt đèn lên xem. Cô gắp ra một con vắt to bằng con đỉa trâu nằm lăn ra trên nền nhà. Thì ra con vắt này ẩn mình trong mũi tôi, hút máu tôi suốt dọc đường hành quân. Sau hai ngày nằm ở trạm sức khỏe tôi hồi phục.

Chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Lần này chúng tôi qua đất Hà Giang, nơi đây nhân dân ở rất thưa thớt. Một vài bản làng mọc vắt vẻo lưng chừng núi. Tiếng chày giã gạo "rít boop" cứ văng vẳng bên tai tôi một âm thanh lạ và buồn. Ngày cuối cùng trên đất Hà Giang, chúng tôi vượt cầu treo sang đất Trung Quốc, bỏ lá ngụy trang, đứng trên đỉnh núi Cổng Trời nhìn về Tổ quốc, thấy nhớ quê hương, nhớ người thân da diết.

Hành quân trên đất bạn không có tiếng máy bay trên bầu trời, không có rừng rậm, suối sâu, chỉ có đồi núi, tầm mắt được phóng ra xa, tuy còn vất vả, gian khổ nhưng lòng thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Đêm đầu tiên, chúng tôi dừng chân ở Giao Chỉ thành - một làng nhỏ gần biên giới. Dân làng mặc quần áo toàn một màu chàm. Đàn bà, con gái đều bó chân đi lại rất khó khăn. Từ đó ngày đi, đêm nghỉ, chúng tôi vượt qua đèo đến Ma-li-phố, Xin Kai, Tây Thọ. Đến Điền Sơn chúng tôi được nghỉ dài ngày - nghe nói đây là nơi kết thúc cuộc hành quân cuối cùng của chúng tôi. Tại đây, chúng tôi được đơn vị bạn đón tiếp niềm nở. Chúng tôi được phát đầy đủ ba lô (kiểu giải phóng quân Trung Quốc) quần áo, chăn màn.

Đặc biệt là chiếc mũ Kêpi. Qua cuộc hành quân dài ngày, người nào người nấy gầy xanh. Cái đầu thì bé, cái mũ lại to, khi đội vào cứ quay tròn trên đầu, trông đến nực cười. Chúng tôi được bồi dưỡng sức khỏe, được ăn uống rất đầy đủ. Lần đầu tiên trong đời, tôi được xem bộ phim "Bạch mao nữ". Hình ảnh "Bạch mao tiên cô" sống dưới chế độ phong kiến Trung Quốc làm tôi vô cùng xúc động.

Qua gần một tháng được nghỉ ngơi, chúng tôi trở nên khỏe mạnh, sẵn sàng chuẩn bị đến trường học tập thì bỗng có lệnh mới: Toàn đơn vị, mang vũ khí trở về Tổ quốc. Đất nước Trung Quốc mới được giải phóng (10-1949). Biên giới Việt - Trung được khai thông. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp từ giai đoạn cầm cự đang chuyển dần sang giai đoạn tổng phản công. Lực lượng vũ trang của ta phát triển nhanh, nhiều cuộc chiến đấu với quy mô lớn đang diễn ra ác liệt. Quân đội đang cần vũ khí, đạn dược để chiến đấu và chiến thắng. Chúng tôi vinh dự được góp một phần nhỏ cho cuộc kháng chiến đó.

Chúng tôi lại hăm hở mang vũ khí lên đường trở về Tổ quốc. Những gian nan vất vả lại đè nặng lên đôi vai chúng tôi. Nhưng lần này đã có thêm sức mạnh đó là niềm tự hào trực tiếp tham gia kháng chiến.

Ngày lại ngày, chúng tôi lại leo đèo vượt dốc; khi dừng chân nghỉ, chúng tôi cất cao tiếng hát - bài hát của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, người cùng đi với đoàn khi ấy mới sáng tác: "Đường không xa, dốc không cao. Anh em ta còn nhớ hôm nào... Sáng nay nhắn gì? Người ra đi nhớ chăng? Hứa góp gì cho nước nhà?".

Hàng tấn vũ khí, đạn dược do hai vai chúng tôi lần lượt chuyển về nước. Chúng tôi như đàn kiến khổng lồ tha lâu cũng đầy tổ. Bên kia biên giới, một đơn vị khác đang chờ chúng tôi.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở lại Điền Sơn, chuẩn bị hành quân đến trường. Lần này thì thật là sung sướng, không phải đi bộ mà đi bằng tàu hỏa. Đoàn tàu đưa chúng tôi đến một miền quê vùng Hoa Nam Trung Quốc. Hồi đó theo lệnh trên phải tuyệt đối giữ bí mật quân sự. Chúng tôi không được phép tiếp xúc với nhân dân. Đến ga Nghi Lương, Việt kiều ra đón rất đông. Hai bên nhìn nhau, ánh mắt, nụ cười xúc động. Hình như họ cũng tự hiểu rằng toàn bộ hành khách trên chuyến tàu này là "hành khách đặc biệt".

Từ ga về trường không còn xa nữa. Chúng tôi vừa đi vừa ngắm phong cảnh đất nước bạn bao la hùng vĩ, để lại trong lòng chúng tôi mối tình hữu nghị Việt - Trung luôn luôn bền vững.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”) 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét