4/11/24

Lớp chuyên môn thông tin đầu tiên

Thiếu tướng Nguyễn Diệp

Tháng 11 năm 1945, tôi là chiến sĩ quân báo chuyên theo dõi hoạt động của quân Tầu Tưởng đóng trong thành Hà Nội. Một hôm, sau khi nghe tôi báo cáo tình hình, bác Hoàng Đạo Thúy nói: "Bộ sắp mở lớp thông tin vô tuyến điện, em là Hướng đạo sinh đã biết moóc-sơ nên tôi quyết định em sang học lớp đó để sau này làm công tác thông tin"1.

Với tinh thần sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ và sẽ được học vô tuyến điện, một ngành khoa học kỹ thuật, nên tôi vui vẻ chấp hành.

Bác Thúy cho biết sẽ tổ chức lớp học ở trường Tiểu học Hàm Long (nay là trường Trung học Ngô Sĩ Liên) ở phố Hàm Long - Hà Nội. Trong thời gian học viên do các đoàn thể cử đến chưa đủ, tôi được phân công cùng một số học viên đến trước chuẩn bị cơ sở vật chất cho lớp. Số anh em đến trước hầu hết là học sinh trung học phổ thông ở nội ngoại thành tuổi từ 18 đến 20, riêng tôi mới 16 tuổi nhưng cao 1m66, nặng 60 kg. Vì là "cựu binh", đã làm chiến sĩ quân báo và là Hướng đạo sinh cứu quốc, quen các sinh hoạt tập thể nên tôi được chỉ định làm tiểu đội trưởng kiêm quản lý của lớp, lo lĩnh quân trang, quân dụng và tổ chức nuôi quân...

Quân trang lúc đó ở trại Bảo an binh là của "lính khố xanh" gồm áo sơ mi cộc tay, quần soóc lửng, chân quấn xà cạp, đầu đội mũ ca-lô bằng vải chăn chiên. Chăn đắp 2 người một chiếc là loại dệt bằng bông gạo sơ chế (gọi là Ka-pốc), buổi sáng ngủ dậy ngoáy lỗ mũi cũng có bông gạo, anh em mặc áo màu sẫm sẽ có một lớp bông gạo trắng phủ lên khó mà gỡ sạch. Việc vận chuyển bàn ghế, doanh cụ từ kho đến lớp học cũng khá gay go, vất vả vì toàn là "lính cậu" đẩy xe bò trên đường phố nhỡ gặp người nhà hoặc bạn gái thì ngượng chết. Tôi phải động viên anh em và xung phong "làm bò" nên rồi anh em cũng quen và sau hai ngày đã chuyển hết dụng cụ, bàn ghế đến trường Hàm Long.

Trong những ngày chờ khai giảng, tôi phổ biến bảng tín hiệu Moóc-sơ và dùng còi thổi để anh em làm quen.

Ngày 7 tháng 12 năm 1945, lớp học được khai giảng cũng là ngày chúng tôi chính thức nhập ngũ. Lớp học có 23 học viên và một chị làm nhiệm vụ nuôi quân. Tuy mục tiêu chính là đào tạo hiệu thính viên (nay gọi là báo vụ viên) nhưng nội dung học tập khá toàn diện và được gọi là lớp chuyên môn thông tin. Để kỷ niệm lớp hiệu thính viên đầu tiên của quân đội mở tại Thủ đô, khóa học lấy tên là khóa Hoàng Diệu2. Mỗi học viên được cấp phù hiệu thêu bốn chữ CMTT và biểu tượng là cột ăngten phát sóng3, nghĩ lại cũng có thể hiểu CMTT là Cách mạng tháng Tám.

Lớp có hai giáo viên chính là đồng chí Lê Dung và Vũ Hán Thăng dạy kỹ thuật và nghiệp vụ. Bác Hoàng Đạo Thúy và các đồng chí Quang Đạm, Vũ Quang dạy chính trị và một võ sư dạy võ thuật. Về quân sự, anh em chỉ tập đội ngũ và sử dụng súng trường, súng ngắn do học viên đã học khi tham gia Tự vệ chiến đấu ở khu phố hướng dẫn lại, ngoài ra nghe anh Nguyễn Duy Thịnh, một học viên đã tham gia chiến đấu ở Thị Nghè kể lại một số trận đánh khi Pháp gây chiến ngày 23 tháng 9 năm 1945 ở Nam Bộ.

Dụng cụ học tập rất nghèo nàn, thô sơ, maníp để phát báo bằng gỗ, dùng cao su săm xe đạp để làm lò xo, tai nghe quàng đầu một bên là gỗ, một bên là thật. Riêng giáo viên có một maníp tốt có lò xo điều chỉnh được và một bộ máy phát báo tự động để luyện cho học viên thu tín hiệu từ chậm đến nhanh, với nhịp điệu và giãn cách đúng tiêu chuẩn.

Các môn học khác như điện kỹ thuật, nguyên lý vô tuyến điện, quy tắc liên lạc và chính trị đều "nghe giảng", riêng môn võ thuật giáo viên hướng dẫn tập đối kháng ở sân trường, tôi và anh Mai Đình An là hai học viên được võ sư mến nhất4.

Ngoài việc học tập, lớp còn phân công thay nhau "gác cổng trường 24/24". Vì Hội Phụ nữ Cứu quốc cũng sử dụng trường Hàm Long làm trụ sở, do đó nhân dân trong khu phố đều tưởng chúng tôi là đội cảnh vệ của Hội Phụ nữ, chúng tôi cũng nhận "phiên hiệu" đó để giữ bí mật, tránh sự nhòm ngó của bọn Quốc dân Đảng lúc này vẫn hoạt động phá hoại ở Hà Nội.

Về sinh hoạt, chúng tôi được cấp mỗi người 18 kg gạo/tháng và 180 đồng tiền thức ăn, ngoài ra còn được 5 đồng để tiêu vặt (cắt tóc, mua xà phòng). Với giá thị trường lúc đó, tiền thức ăn vẫn tạm đủ để bữa ăn có hai món như rau muống luộc, đậu rán, thịt kho... nhưng khổ nhất là món cơm, rất khó nuốt vì gạo được cấp phát đều lấy ở các kho dự trữ của phát xít Nhật nên có loại gạo hẩm, mốc đã lên men, khi vo, gạo tan ra nước đến 20%, cơm có vị chua; có loại gạo có rất nhiều sạn vì khi bị Nhật thu thuế, nhân dân ta đã trộn cát, sỏi vào thóc cho đủ cân nên khi xay xát thành gạo ít ra cũng có 10% là sạn. Khi vo loại gạo này tuy đã "đãi" nhiều lần (mỗi rá gạo đãi hàng bát cát và sỏi vụn) nhưng khi nấu thành cơm, miếng cơm nào cũng có sạn và chúng tôi phải "đãi sạn lại" bằng cách chan thật nhiều nước rau muống luộc vào bát cơm rồi quấy lên cho sạn lắng xuống, khi ăn dành lại miếng cơm cuối cùng để "nuôi lợn". Để khắc phục tình trạng "khó nuốt" trên, tôi đã có sáng kiến đề nghị anh em bán gạo xấu đi, lấy một phần tiền thức ăn bù để mua gạo tốt hơn, do đó những bữa ăn sau tuy chỉ có một món rau muống luộc chấm nước mắm chưng có hạt tiêu nhưng anh em ăn ngon miệng, không còn tình trạng thừa cơm nhưng bụng vẫn đói.

Tuy sinh hoạt vật chất thiếu thốn, đối với anh em mới xa gia đình, mới rời ghế nhà trường, có thể nói là gian khổ, nhưng sinh hoạt tinh thần rất phong phú vì hầu hết các học viên đều trẻ, có nhiều khả năng văn hóa, văn nghệ nên hàng tuần chúng tôi đều tổ chức một tối liên hoan văn nghệ ca hát, đọc thơ, diễn kịch...

Hoạt động văn hóa, văn nghệ của chúng tôi đã lôi cuốn cả chị em ở Hội Phụ nữ Cứu quốc, nên nhiều tuần chúng tôi tổ chức liên hoan cùng các "cô láng giềng". Do vậy, không khí càng thêm vui và nếu lớp học kéo dài thêm vài tháng, chắc nhiều anh em sẽ tìm được “ý trung nhân".

Sau ba tháng học tập, chúng tôi đã có trình độ cơ bản để có thể đi thực tập ở các điện đài nên sau khi Chính phủ ta và Pháp ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Phòng Thông tin đã điều động một số đi công tác và toàn bộ khóa học được bế giảng ngày 26 tháng 3 năm 1946. Sau khóa học, 2/3 học viên được điều về các đơn vị, số còn lại được bổ sung thực tập ở Trung tâm thu (BCR) trực thuộc Phòng Thông tin, tôi cũng ở trong số này.

Đến tháng 8 năm 1946, sau khi quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng và nhảy dù ở Lạng Sơn, tôi và anh Đỗ Minh5 được điều đi phụ trách đài ở Đại đoàn Bắc Bắc đóng quân ở Lục Nam. Sau khi Đại đoàn này giải thể, tôi được chuyển về Khu 1 phụ trách đài di theo đồng chí Bằng Giang – Khu trưởng làm nhiệm vụ tiễu phỉ diệt bọn Quốc dân Đảng ở tỉnh Yên Bái và Lào Cai.

Sau 40 năm liên tục công tác trong Binh chủng Thông tin, được Đảng và tập thể giáo dục, giúp đỡ, rèn luyện, từ một chiến sĩ báo vụ, tôi đã được bổ nhiệm làm Tư lệnh Binh chủng cuối năm 1987 và được nghỉ chế độ từ năm 1992 nhưng những kỷ niệm về lớp chuyên môn thông tin đầu tiên (12-1945 đến 3-1946) vẫn in sâu đậm trong tâm trí tôi...

Hà Nội, tháng 9-1996

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”)

----------------------------

1 Lúc này bác Hoàng Đạo Thúy phụ trách 3 ngành Quân báo, Thông tin, Mật mã của Bộ Tổng Tham mưu.

2 Xem Lịch sử Bộ đội Thông tin, xuất bản 7/1996, tr. 33.

3 Phù hiệu còn lưu giữ ở Bảo tàng Thông tin.

4 Anh Mai Đình An sau kháng chiến chống Pháp đã học và tốt nghiệp Phó Tiến sĩ vô tuyến điện tử ở Liên Xô.

5 Anh Đỗ Minh đã hy sinh ngày 6 tháng 5 năm 1954 ở Điện Biên Phủ khi làm Phó ban Thông tin ở Đại đoàn 312. 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét