Đặng Trường Lưu - hội viên Hội
Mỹ thuật Việt Nam
Tôi đã từng được dự nhiều cuộc
kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại, người Cha già kính yêu của dân tộc.
Mỗi cuộc kỷ niệm ở mỗi nơi với nhiều hình thức khác nhau nhưng lần nào cũng xúc
động khiến lòng tôi rưng rưng nhớ mãi. Câu chuyện nhỏ mà tôi sắp kể với các bạn
xảy ra đã hơn ba chục năm rồi. Ấy là lần kỷ niệm cuối cùng khi Người còn sống.
Bởi vì, không ai biết rằng, chỉ hơn 3 tháng sau, Bác của chúng ta ra đi vĩnh viễn.
Dạo ấy, chúng tôi đón một
cái Tết hân hoan đầy ý nghĩa giữa rừng Lào bởi những lời ngợi khen chân tình và
sâu sắc từ thư của Bác Hồ gửi bộ đội thông tin liên lạc. Trung đoàn chúng tôi,
một đơn vị có nhiệm vụ chuyên xây dựng đường dây thông tin chiến lược của Bộ,
nhận lệnh cấp tốc hành quân trở ra để xây dựng một đường dây mới, tương đối hiện
đại với những hàng cột sắt từ A60 đến A70. Đây là tuyến đường hiểm trở và quan
trọng như xương sống của cơ thể miền Trung, đòi hỏi việc thực hiện phải khẩn
trương, kín đáo và kỹ thuật cao, đáp ứng được mọi tình huống liên lạc, đề phòng
giặc Mỹ có thể điên cuồng trở lại đánh phá miền Bắc. Đại đội 6 của tôi, trong
những ngày này, đang bừng bừng khí thế phấn đấu được Nhà nước phong danh hiệu
cao quý: "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Lá cờ thưởng
luân lưu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trao cho quân đội, quân đội trao cho
Binh chủng Thông tin. Binh chủng lại trao cho trung đoàn chúng tôi, đơn vị mũi
nhọn chịu nhiều gian khổ hy sinh tại chiến trường cho chiến dịch tổng tấn công
Mậu Thân năm 1968, và Đại đội 6 của tôi nhận lấy vinh dự phải giữ bằng được lá
cờ vẻ vang ấy.
Nhiệm vụ lập tức triển khai.
Sau khi phát rừng mở tuyến, chúng tôi vận chuyển bệ xi măng, cột sắt cùng xà gồ,
tích sứ và dây kim loại vào từng cột mốc trên đôi vai của mình. Cứ bốn người
khiêng một bệ xi măng, hai người khiêng một cột sắt. Ngày lại ngày dưới trời nắng
tháng tư như thiêu như đốt, chúng tôi cần cù và hối hả vận chuyển vật liệu, lấp
dần từng khoảng cột với nỗi niềm đã kết thành ý chí "Quyết giữ cờ Đảng".
Điểm cao 409 nằm trong dãy
núi trập trùng của huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình, nối liền với dải Trường Sơn,
là đoạn tuyến cuối cùng của Đại đội 6, cũng là đoạn đường hiểm trở nhất. Từ
chân lên đỉnh, quãng đường dài 3km ấy lúc chênh vênh bên sườn đồi cháy nắng,
lúc hun hút lao xuống vực thẳm, khi vượt lên dựng đứng như bức tường thành. Những
người lính từng kéo đường dây lên Tây Bắc hay len lỏi trong rừng già Trường
Sơn, phục vụ vụ thông tin liên lạc cho chiến dịch tổng tấn công Mậu Thân ở Huế
như chúng tôi, sau mỗi ngày phát cây mở tuyến trở về, ai cũng phải "lắc đầu
lè lưỡi" với đoạn đường có một không hai này, chính vậy mà từ mấy ngày trước,
ban chỉ huy đại đội đã họp cùng anh em bàn cách chinh phục. Và chiến dịch đột
kích điểm cao 409 được phát động vào đúng ngày 19 tháng 5, lấy thành tích thiết
thực chào mừng ngày sinh của Bác.
Hãy thử hình dung bốn người
khiêng một bệ xi măng gần 2 tạ với những đòn tre, quang sắt nhùng nhằng, thận trọng
nhích từng bước trên đoạn đường như chiếc thang dựng đứng. Hãy thử hình dung một
cây cột sắt chữ T dài 6 mét, hai người khiêng trên dốc đèo ngoằn ngoèo như ruột
lợn... Cố thử hình dung bao nỗi nhọc nhằn dưới nắng lửa mưa tuôn như thế mới hiểu
được phần nào cái niềm vui dâng trào tột đỉnh của người chiến sĩ, khi những khối
vật liệu nặng nề câm lặng kia được đưa an toàn vào nơi quy định, để rồi lắp đặt,
dựng chúng lên căng thành con đường liên lạc, để tiếng nói Bác Hồ mệnh lệnh của
Đảng, của Tổng tư lệnh truyền tới chiến trường qua bao tín hiệu trầm bổng ngày
đêm ca hát.
Suốt 4 tiếng đồng hồ, kể từ
lúc mở màn trận đột kích, chúng tôi bươn bải giữa nắng lửa, với đèo cao. Lần lượt
những khối xi măng, những cột nữa mới đến được mốc số 140, cột mốc cuối cùng nằm
trên đỉnh đồi 409, đồng chí cùng khiêng cột sắt với Vi Quang Mướng trượt chân
ngã trẹo xương bánh chè.
Cây cột suýt đè ngang người
Mướng anh đau đớn nghiến răng trèo trẹo, rồi bình tĩnh quay ngang đầu cột, từ từ
đặt xuống.
Mướng là một thanh niên khỏe
mạnh, người dân tộc miền Sơn Đông, Bắc Giang. Vào bộ đội, anh chưa hề biết chữ.
Đại đội cử người tìm sách dạy cho anh học, đến nay đã học xong chương trình lớp
bốn. Ở đại đội, anh em gọi Mướng là "danh thủ chuyển vận". Đường dốc
không thể gánh, anh buộc 12 thanh một bó và gùi đi, trong khi chỉ tiêu đơn vị
giao cho mỗi lần chỉ khoảng 6 đến 8 xà. 12 xà gỗ trên lưng và một thanh xà dùng
thay gậy chống. Chỉ tiêu hai người khiêng một cột sắt, mình anh chuyển 9 cột vượt
quy định 6 cột mỗi ngày. Mướng là một người ít nói, hay cười, có nhiều mơ ước, hôm
vượt sông An An Châu về huyện lỵ nhập ngũ, được vào bộ đội Binh chủng Thông
tin, hành quân qua thủ đô Hà Nội, anh cứ mong có một ngày được đến Ba Đình ngắm
vào nhà Bác... Ngồi nghỉ một lát, biết đội hình vận chuyển đại đội không thể có
người bổ sung, anh quyết định một mình vác cột nhích dần lên đỉnh.
Khi chúng tôi cùng chính trị
phó đại đội Vũ Đức Thanh khiêng bệ xi măng đến điểm cao 409 thì mặt trời đã lặn
vào khe núi. Tiếng reo chiến thắng của anh em truyền từ đỉnh xuống chân đồi, rồi
cứ thế truyền đi truyền lại, âm vang như sóng dội vào vách đá. Vi Quang Mướng nằm
đó, ngất xỉu bên cây cột sắt còn vương hơi nóng, chúng tôi nhìn thấy ảnh Bác Hồ
to bằng bàn tay, hẳn đã được cắt ra từ cuốn sổ phần thưởng, và dưới tấm ảnh Bác
Hồ mỉm cười đôn hậu ấy, một dòng chữ bằng máu được viết bằng đầu tăm tre, nét
chữ ngả nghiêng cứng đờ của một bàn tay chai sạn, ấy là thứ chữ của người vừa
được học, dòng chữ viết rằng "Cháu tên là Mướng, Bác Hồ ơi!".
Thảo nào đêm qua, cả tiểu đội
nhắc nhau ngủ sớm để lấy sức cho ngày thi đua lập công mừng ngày sinh nhật Bác,
chúng tôi thấy Mướng cứ hì hụi mãi trong màn, dưới ánh đèn dầu tù mù, làm một
việc gì đó có vẻ bí mật, mà mãi đến lúc này chúng tôi mới hiểu.
Rồi Mướng tỉnh dậy, cùng
chúng tôi đứng lên hướng về phương Bắc những người lính áo quần sũng nặng mồ
hôi, khuôn mặt đen nhẻm tràn trề nước mắt - ấy là những giọt nước mắt của niềm vui.
Chúng tôi muốn thưa cùng Người chút thành tích vừa cùng nhau lập được trong
ngày, thầm mong Người luôn luôn mạnh khoẻ. Chúng tôi nào có biết rằng chính lúc
này đây người đang nằm trên giường bệnh và chỉ hơn ba tháng sau, Người không
còn nữa. Ngày trung đoàn bàn giao tuyến đường dây quan trọng bên bờ sông Choóc
- Quảng Bình để lại quân vào mặt trận, cũng là ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta.
Năm tháng qua đi, nhiều đồng
đội của chúng tôi trong đó có Vi Quang Mướng đã ngã xuống ở mặt trận Tây Nguyên,
khi các anh được lệnh chuyển về tăng cường cho lực lượng thông tin tỉnh đội. Tấm
ảnh Bác Hồ có dòng chữ được viết bằng máu của Mướng được anh em gửi về nhà truyền
thống từ buổi chiều đáng nhớ ấy, nay cũng chẳng còn, và rồi, nhiệm vụ mới của
thông tin thời bình đã không cho phép trung đoàn chúng tôi tồn tại nữa, anh em
lại tản ra mỗi người về một đơn vị trong binh chủng của âm thanh nghĩa tình
khoan nhặt.
Tháng 5-2002
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin”)
0 comments:
Đăng nhận xét