Nguyễn Viết Sửu
Đế quốc Mỹ bị thất bại nặng
nề, liên tiếp ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ cuối năm 1964 đầu
năm 1965 trở đi, chúng điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng
không quân và hải quân; hòng ngăn chặn sự chi viện của quân dân miền Bắc đối với
chiến trường miền Nam.
Thời gian đầu chúng đánh phá
các kho tàng bến cảng, nhà ga, xe lửa, sân bay, cầu cống... Về sau càng ngày
càng mở rộng, càng ngày càng ác liệt với quy mô lớn hơn và khốc liệt hơn; kể cả
các vùng nông thôn hẻo lánh đến nơi thành thị đông dân như ở thành phố Hà Nội,
thành phố Hải Phòng...
Trước họa xâm lăng của đế quốc
Mỹ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lớp lớp thanh niên trai tráng, xung
phong tình nguyện ra chiến trường diệt Mỹ để bảo vệ đất nước. Hàng vạn chị em lứa
tuổi mười tám đôi mươi, ở các tỉnh thành miền Bắc, tình nguyện xung phong lên đường
để chống Mỹ cứu nước; số vào bộ đội và số gia nhập thanh niên xung phong.
Tháng 10 năm 1965, 10 chiến
sĩ gái đầu tiên được phân công về đơn vị 134, là lớp trung cấp bưu điện được đào
tạo bài bản, đó là các cô: Nguyễn Thị Nghiêm ở Hải Phòng; Phan Thị Xuân Sánh ở
Nghệ An; Nguyễn Thị Thuận ở Hưng Yên; Đoàn Thị Thanh Trà ở Hải Dương; Dương Thị
Phả ở Thái Nguyên; Phạm Thị Thanh Mai và Cung Thị Thanh Hiền ở Hà Nội; Nông Thị
Tần; Nông Thị Nga người dân tộc Tày. Tuy các cô được đào tạo 3 năm ở trường
trung cấp bưu điện về nghiệp vụ kỹ thuật thông tin, nhưng khi mới vào quân ngũ,
các cô còn hết sức bỡ ngỡ, kể cả về sinh hoạt cũng như trong công tác tổ chức đảm
bảo thông tin liên lạc.
Sau một thời gian được huấn
luyện bổ túc, dần dà các cô làm chủ được trang bị kỹ thuật, sử dụng và khai
thác thành thạo các loại máy móc, quen với công việc và nếp sinh hoạt thường
ngày của quân đội.
Sau này các cô trở thành lớp
đàn chị, là hạt nhân làm nòng cốt ở các trạm A10, A41, A53, A54, A56, A46,
A47... và chính các cô đã trực tiếp dìu dắt, bồi dưỡng các lớp chiến sĩ gái sau
này của đơn vị. Nhiều chị đã trở thành cán bộ, đảng viên và chiến sĩ thi đua.
Chị Nguyễn Thị Nghiêm người
con gái của thành phố hoa phượng đỏ, tính tình nết na thuỳ mị, nhưng trong công
việc lại nghiêm túc và sâu sát chị em. Chị từ nhân viên tải ba được kết nạp vào
Đảng, được đề bạt làm trạm trưởng trạm A10 của Đại đội 8 ở Hà Nội, rồi về làm đại
đội phó Đại đội 1 ở Hải Phòng. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất
nước được thống nhất chị chuyển ngành làm giám đốc trung tâm điện thoại đường
dài của Bưu điện Hải Phòng.
Thiếu úy Phan Thị Xuân Sánh
quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An trạm trưởng A46, thiếu uý Nguyễn Thị Thuận quê ở Hưng
Yên đang làm chính trị viên trạm A10. Được lệnh điều động, hai chị đã dẫn đầu
đoàn quân, số đông là chiến sĩ gái đi vào chiến trường Trị Thiên - Huế. Nơi
giáp ranh giữa hai miền Nam - Bắc, đã từng chịu đựng đạn bom hết sức ác liệt.
Lúc đầu còn ở trạm KC 100A, sau đó phát triển sâu vào trạm KC 100B; các chị đã
vượt mọi khó khăn gian khổ, chẳng quản ngại hy sinh, quên mình vì nhiệm vụ. Kết
thúc chiến dịch Trị Thiên - Huế, hai chị đều được tặng thưởng Huân chương Chiến
công hạng Ba và được điều về làm trợ lý chính trị trung đoàn. Hòa bình lập lại,
đất nước thống nhất, thiếu uý Phan Thị Xuân Sánh chuyển ngành làm cửa hàng trưởng
cửa hàng thương nghiệp ở Hà Nội; còn trung uý Nguyễn Thị Thuận làm cán bộ ở
Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Cũng trong chiến dịch Trị
Thiên - Huế năm 1972, lớp đàn em, lớp chiến sĩ của các chị, học tập và noi
gương các chị, cũng ra sức phấn đấu, cũng ngoan cường dũng cảm, chịu đựng gian
khổ hy sinh, bám dây bám máy để hoàn thành nhiệm vụ. Chiến sĩ Dương Thị Phả trạm
KC 100B người được vinh dự cắm phích đầu tiên cho Tư lệnh chiến dịch hạ lệnh nổ
súng tấn công mở màn chiến dịch "bão táp" được truyền đạt xuống các
đơn vị đánh chiếm các vị trí quan trọng ở Cồn Tiên, Dốc Miếu và Cửa Việt; ở các
cao điểm 241, 544, 597 và 365 đều báo cáo kịp thời về sở chỉ huy chiến dịch. Kết
thúc chiến dịch đồng chí Phả được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.
Riêng chị Âu Thị Thảo lại
trong hoàn cảnh khác. Là người dân tộc Tày ở Thái Nguyên, nhập ngũ năm 1966. Lúc
mới vào đơn vị, nói tiếng Kinh còn chưa thạo; nhưng qua một thời gian huấn luyện
và bồi dưỡng của đơn vị, sự giúp đỡ tận tình của đồng đội và sự nỗ lực rèn luyện
phấn đấu của bản thân, cô đã trưởng thành nhanh chóng, nắm vững máy móc trang bị
kỹ thuật, thao tác thành thạo. Trong khi chiến trường đòi hỏi mạng thông tin
liên lạc phát triển, phải tổ chức thêm trạm KC 100B sâu vào phía trong. Cần
chuyển một số cán bộ chiến sĩ vào để tổ chức xây dựng trạm, kịp thời phục vụ
chiến đấu. Đồng chí Âu Thị Thảo lúc bấy giờ đang bị bệnh sốt rét, người còn yếu
mệt; đơn vị để lại KC 100A nhưng đồng chí cứ nằng nặc xin đi bằng được. Đồng
chí chính uỷ trung đoàn phải giải thích và động viên. Đồng chí đang sốt rét hãy
ở lại, để các đồng chí khoẻ mạnh hơn đi vào KC 100B; đồng chí Thảo khóc xin đi
bằng được. Cuối cùng đồng chí Thăng cũng phải đồng ý. Khi được thủ trưởng trung
đoàn đồng ý cho đi, đồng chí Thảo cười và vui vẻ hẳn lên. Kết thúc chiến dịch,
trạm KC 100B được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhất; đồng chí Thảo
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở thành chiến sĩ quyết thắng, được đơn vị
cử đi dự Đại hội Thi đua Quyết thắng của Binh chủng Thông tin ở Hà Nội. Sau này
đồng chí Phạm Ngọc Thăng có bài thơ "Tôi cứ đi" tặng đồng chí
Âu Thị Thảo.
Tôi cứ đi, không tôi cứ đi.
Đau đớn gì đâu, có bận gì?
Ngày đi đánh Mỹ hằng mong đợi
Sao bảo tôi đừng, tôi cứ đi.
Đã bảo đừng đi lại cứ đòi
Đã khuyên đã nhủ chẳng nghe
lời
Há phải ở đây không đánh Mỹ?
Ốm đau nên hãy để nhường người
Lại khóc rồi ư cô gái ơi
Nghe trong tiếng khóc động
bao nhời
Hiểu lầm nhưng cũng chiều
lòng vậy
Đang khóc mà sao lại hóa cười
Khen thay cô gái trạm một
trăm
Đòi đi đánh Mỹ dạ khăng
khăng
Khóc cười kiểu ấy, tinh thần
ấy
Anh hùng đâu phải chuyện xa xăm.
Năm 1972, cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam, đã leo thang đến đỉnh điểm cao
nhất. Chúng đánh phá hết sức ác liệt; đặc biệt là trên tuyến lửa Quân khu 4,
các tuyến đường dây và hầu hết các trạm thông tin đều bị bom Mỹ đánh phá.
Trạm A79 đóng ở huyện Nghi Lộc, sát ngay thành
phố Vinh nơi trọng điểm thường xuyên bị chúng bắn phá. Đồng chí Phạm Thị Thuyến
quê ở Hà Tĩnh, gan góc, bình tĩnh, dũng cảm không rời vị trí chiến đấu, ngồi lỳ
trước cửa tổng đài tiếp chuyển liên lạc, phục vụ đơn vị phòng không hàng trăm
trận đánh trả máy bay Mỹ. Có lần bom nổ gần sát trạm, nhà cửa và hầm tổng đài
rung chuyển, mặc cho đạn nổ đinh tai, khói bom mù mịt, tay đồng chí vừa ôm giữ tổng
đài cho khỏi bị rung đổ, tay tiếp chuyển liên lạc, kịp thời phục vụ các đơn vị
phòng không, tên lửa thành phố Vinh bắn rơi 3 máy bay Mỹ. Sau trận này đồng chí
vinh dự trở thành chiến sĩ quyết thắng của Đại đội 2 thông tin anh hùng. Trạm
cơ vụ A69, ở Hương Khê - Hà Tĩnh nằm trên tuyến thông tin dây trần Bắc Nam ngày
6 tháng 7 năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá, thả bom dữ dội có 10 chiến sĩ gái tuổi
17 - 18 đã anh dũng hy sinh trong lúc đang làm nhiệm vụ.
Cuối năm 1972, trong 12 ngày
đêm liên tục, máy bay B52 của đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá vào thủ đô Hà Nội.
Chúng đánh cả vào Bệnh viện Bạch Mai, khu phố Khâm Thiên, Đài phát thanh Mễ Trì...
Thiếu úy Nguyễn Thị Thanh Hà
người ở Hà Nội là con gái của Lưỡng Quốc tướng quân Nguyễn Sơn. Chị tốt nghiệp
trường Đại học Kỹ thuật quân sự, được điều về làm trạm trưởng A10, thường nhật
là một cán bộ bộc trực, miệng nói tay làm, gần gũi chị em; làm tốt công tác chỉ
huy quản lý kỹ thuật của trạm.
Trong những ngày địch đánh
phá chị đã tổ chức chỉ huy trạm, bảo đảm thông tin liên lạc cho Bộ Tổng tư lệnh
chỉ huy các đơn vị bắn rơi máy bay B52 của đế quốc Mỹ. Khi đường dây mất liên lạc,
chị đã cùng các chiến sĩ đường dây dũng cảm vượt qua bom đạn, tổ chức khôi phục
thông tin liên lạc ở khu vực Mễ Trì, kịp thời phục vụ chiến đấu, góp phần cùng
quân dân Hà Nội làm nên chiến thắng lịch sử "Điện Biên Phủ trên
không".
Chị Đoàn Thị Toan trạm A52 ở
Hòa Bình lại nổi tiếng là người đo dây mất liên lạc giỏi nhất, chính xác nhất;
có sai số cũng chỉ trong vòng một vài khoảng cột giúp chiến sĩ đường dây đi
khôi phục thông tin được nhanh chóng. Chị được các chiến sĩ đường dây trên các
tuyến hết sức tín phục.
Còn chị Dương Thị Lệ Phái và
Dương Tố Hảo là 2 chị em con chú con bác, quê ở Phú Bình - Thái Nguyên, cùng nhập
ngũ vào đơn vị năm 1966.
Noi gương cha anh, các chị
phấn đấu trở thành đảng viên. Hai chị không những chỉ khá giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ mà còn là những hạt nhân văn nghệ của đơn vị, cùng các chị Lê Thị Cửu, Nguyễn
Kim Tuyến, Đinh Tuyết Lan, Triệu Thị Bộ, Đoàn Thị Thanh Trà, Nguyễn Thị Lộc trong
đội tuyên truyền văn nghệ xung kích của trung đoàn, mang lời ca tiếng hát để phục
vụ các tổ, các trạm. Có những đợt đi phục vụ các tổ, các trạm hàng tháng trong vùng
sâu trên tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh.
Sau khi đất nước được thống
nhất, thiếu úy Dương Thị Lệ Phái, trợ lý chính trị trung đoàn chuyển ngành ra Hội
liên hiệp phụ nữ, làm Chủ tịch hội phụ nữ quận Ba Đình và là Ủy viên Ban Chấp
hành Hội phụ nữ thành phố Hà Nội. Còn chị Dương Tố Hảo sau khi học đại học tài
chính là chuyên viên cao cấp của Bộ Tài chính. Các chị Lữ Tuyết Mai, Phạm Như Hồng
là cán bộ cao cấp của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Chị Bùi Thị Hòa trước là
chiến sĩ của trạm KC 100B nay là bác sĩ, Phó chủ nhiệm khoa Nội Bệnh viện 7 ở Hải
Dương, chị Nguyễn Thị Liên là Phó chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh; chị Nguyễn
Thị Biên, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Yên Thủy tỉnh Hòa Bình; chị Nguyễn
Thị Loan,Bí thư Đảng ủy phường Hàng Buồm - Hà Nội và còn nhiều chị em khác nữa
họ đều thành đạt, tôi không thể nhớ và kể tên hết được bởi vì cuộc chiến kết thúc
cũng đã 30 năm rồi.
Sau khi miền Nam hoàn toàn
giải phóng, nước nhà được độc lập và thống nhất. Các chị rời quân ngũ trở lại với
đời thường, mỗi người một công việc, một cuộc sống. Tuy hoàn cảnh có khác nhau,
nhưng các chị vẫn giữ được bản chất, truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ".
Hơn 30 năm đã trôi qua, hồi
tưởng lại cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, lớp con cháu Bà
Trưng, Bà Triệu; lớp đội quân tóc dài của tướng quân Nguyễn Thị Định; lớp đàn
con của các chị Nguyễn Thị Chiên, Tạ Thị Kiều; các cô gái Đoàn Nam Liên trong
thời chống Mỹ, cứu nước, có quyền tự hào được đóng góp công sức của mình làm rạng
danh thêm truyền thống Trung đoàn 134 anh hùng, của Binh chủng Thông tin anh
hùng.
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin”)
0 comments:
Đăng nhận xét