Đại tá Trần Hữu Đạo - nguyên
Chánh văn phòng Binh đoàn 12
Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Trường
Sơn sau gần một năm ở Thạch Bàn, cuối tháng 5 năm 1974 Bộ tư lệnh quyết định di
chuyển vào Bến Tắt - bờ nam sông Bến Hải. Khu vực này cách đây 3 năm còn nằm dưới
sự kiểm soát của Mỹ ngụy.
"Tại đây Bộ tư lệnh Trường
Sơn, tập trung chỉ đạo củng cố tổ chức lực lượng, đẩy mạnh xây dựng cơ bản cầu
đường, nhanh chóng dứt điểm kế hoạch vận chuyển chi viện mùa khô 1974, chuẩn bị
kế hoạch năm 1975".
Bộ đội thông tin ở thời điểm
này, lực lượng, phương tiện, kinh nghiệm tổ chức điều hành có thể nói là đủ cho
sự cần thiết để có thể tổ chức mạng thông tin thích hợp phục vụ cho Bộ tư lệnh
chỉ huy, chỉ đạo các sư đoàn, trung đoàn trực thuộc, liên lạc với trên và các
đơn vị bạn. Tuy vậy, để đảm bảo việc di chuyển không gián đoạn liên lạc đến vị
trí mới nhanh chóng ổn định và phát huy được mọi phương tiện có sẵn đòi hỏi
thông tin phải có sự nỗ lực vượt bậc. Cũng như mọi lần di chuyển, thông tin phải
đi trước một bước. Tham mưu phó Nguyễn Tụng dẫn đầu đoàn Bộ Tham mưu vào trước
để lo xác định vị trí ở của các phòng ban, đơn vị và triển khai mạng thông tin.
Khu vực đóng quân dọc sông Bến
Hải mênh mông, bao la, trải dài hết tầm mắt. Sau bao năm chiến tranh tàn phá nơi
đây chỉ còn là vùng cỏ cây hoang dại, đất cằn xen lẫn mảnh bom đạn và biết bao
những trái bom mìn còn sót chưa nổ nằm dưới đất. Sau khoảng nửa tháng chuyển đến,
nhà cửa bằng tranh tre nứa đã mọc lên san sát.
Cuộc họp của các cán bộ
thông tin chủ chốt nhằm thúc đẩy triển khai nhanh mạng thông tin liên lạc do Bộ
Tham mưu triệu tập được tiến hành dưới mái nhà bạt dã chiến. Đến dự có đông đủ
các đơn vị:
- Thiếu tá Nguyễn Đình Chùy,
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 596.
- Thiếu tá Nguyễn Minh Hiền,
quyền Trung đoàn trưởng Trung đoàn 49
- Đại úy Nguyễn Quốc Tiến,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 16.
- Cơ quan phòng thông tin có
đồng chí Hoàng Đình Quý trưởng phòng và các trưởng ban.
Tham mưu phó Bộ Tham mưu Nguyễn Tụng chủ trì mở
đầu nói:
Mỗi khi Bộ tư lệnh quyết định
di chuyển Sở chỉ huy đến chỗ mới, đồng chí Tư lệnh đều tham khảo ý kiến thông
tin.
Lần này đồng chí hỏi tôi:
- Vào Bến Tắt thông tin có
khó khăn nhiều không?
Tôi trả lời Tư lệnh:
- Khó khăn nhất so với mọi lần
di chuyển từ trước đến nay vì vị trí này ở lệch hẳn về phía đông, trong vùng
dân ta mới giải phóng, thời gian chuẩn bị rất ngắn. Nhưng Binh chủng Thông tin
trên tuyến đã trưởng thành, có thể khắc phục khó khăn để tổ chức bảo đảm thông
tin liên lạc phục vụ Bộ tư lệnh.
Đồng chí Tụng tham gia cách
mạng từ năm 1945, trưởng thành từ báo vụ viên Quân khu 5 thời chống Pháp. Trước
khi vào tuyến có một thời gian dài anh làm tiểu đoàn trưởng khung của Khoa Thông
tin Trường Sĩ quan Lục quân, nên hầu hết cán bộ thông tin tuyến được đào tạo ở trường
ra đều biết thầy Tụng.
Anh Tụng vào tuyến được giữ
chức Trưởng phòng Thông tin từ năm 1966, thân hình anh mập, chắc, đen, tuổi cao
nhất trong phòng. Tính tình cương trực bao dung, sống giản dị, gần gũi quần
chúng, gặp gian nguy một mực kiên trung. Cán bộ trong phòng chúng tôi ai cũng
quý anh, coi anh như chỗ dựa tinh thần để trụ vững ở Trường Sơn.
Nhà văn Việt Phương, trong một
tác phẩm viết về Trường Sơn ví anh như "Cây lim già Trường Sơn" thật không
sai.
Tiếp theo là các ý kiến của trung
đoàn, tiểu đoàn và cơ quan phòng nêu lên các việc đã và đang làm theo kế hoạch Bộ
Tham mưu giao phục vụ sở chỉ huy mới, những tồn tại và đề nghị giải quyết.
Trung tá Hoàng Đình Quý - Trưởng
phòng, người vốn có tính hoạt bát, cởi mở nhưng công việc thì rất cụ thể sâu sát,
được cấp dưới trọng nể và tin yêu, nêu các vấn đề:
- Theo tôi, Sở chỉ huy Đoàn
ta nay ở Bến Tắt, nam sông Bến Hải, là sự thể hiện lớn mạnh vượt bậc của tuyến
chi viện chiến lược Trường Sơn và sự chuyển biến mau lẹ toàn diện của cách mạng
miền Nam.
Ngoài những việc chúng ta
làm khẩn trương theo lệnh của Bộ Tham mưu, theo tôi cần phải tập trung giải quyết
sớm ngay việc tổ chức liên lạc điện thoại trực tiếp với hai sư đoàn xe ô tô:
571 ở Đông Hà, 471 ở Sê Xu (ngã ba biên giới) bằng tải ba và tiếp sức bổ trợ.
Giữ vững liên lạc tải ba hàng ngày với Sư đoàn công binh 470, 473 và các đơn vị
tham gia mở đường, bảo đảm giao thông ở tuyến đông Trường Sơn. Tổ chức tốt
việc vận chuyển hàng quân bưu vào ra các chiến trường bằng cơ giới do Đại đội 3
Tiểu đoàn 16 đảm nhiệm. Đồng thời chuẩn bị phương án sẵn sàng lực lượng triển
khai xuống phía nam khi tình hình cách mạng phát triển.
Cuộc họp đang ý kiến sôi nổi
thì chuông điện thoại của Tham mưu phó Tụng đổ hồi, từ trạm tiếp sức đặt trên đồi
cao phía tây sân bay trực thăng đang được xây dựng cạnh Sở chỉ huy, trợ lý tiếp
sức Nguyễn Văn Tụng (người Thanh Hóa) báo về đã liên lạc tốt với Sư đoàn ô tô
471 và 571. Sau ít phút đồng chí Nguyễn Hộ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 - Trung
đoàn 49 bảo vệ đoạn dây từ A72 đến A73 báo cáo đã thông liên lạc từ 3000 đến
A73, liên lạc tốt với Sư đoàn công binh 473 ở phía đông, qua B28 liên lạc trực
tiếp được với Sư đoàn công binh 472 ở phía tây. Như vậy là các đơn vị chủ công
xe và công binh đều đã có thông tin liên lạc trực tiếp, tin vui đến làm mọi người
dự họp ai cũng hồ hởi.
Tham mưu phó Nguyễn Tụng nói
tiếp: Việc triển khai phục vụ cho di chuyển Sở chỉ huy của các đơn vị vừa qua
đã thực hiện đúng kế hoạch, chất lượng thông tin đường dây, vô tuyến đều tốt.
Chúng ta phải cố gắng hơn để xứng đáng với sự tin cậy của Đảng ủy, Bộ tư lệnh
Trường Sơn từ trước đến nay đã dành cho bộ đội thông tin.
Theo chỉ thị của Bộ Tổng
tham mưu và kế hoạch của Bộ tư lệnh Đoàn, thông tin phải chuẩn bị lực lượng
cùng với quân của Bộ tư lệnh Thông tin kéo dài tuyến dây đông Trường Sơn đến
ngã ba biên giới (Phi Hà) nối với tuyến phía tây. Nhiệm vụ này do Trung đoàn 49
đảm nhiệm.
Nâng cấp và kéo dài đường
dây hiện có của Sư đoàn 470 từ ngã ba biên giới xuống phía nam do Trung đoàn
596 đảm nhiệm.
Tiểu đoàn 16 phải sẵn sàng lực
lượng, phương tiện tiếp sức, 15W, 2W khi có lệnh lên đường phục vụ được ngay.
Sau buổi làm việc chia tay
ra về, ai cũng như thấy rõ trọng trách nhiệm vụ của đơn vị mình hơn, trước tình
hình diễn biến mới của cách mạng và biểu lộ quyết tâm hoàn thành tốt mọi công
việc được giao.
Căn nhà dùng cho trực ban của
Sở chỉ huy Đoàn rộng và dài dựng trên nền đất cao ráo, sạch sẽ và thoáng nhìn ra
dòng sông Bến Hải uốn khúc hiền hòa, nước trong xanh. Các máy trực ban binh chủng
được xếp đặt theo đội hình như ngày ở địa đạo Trường Sơn, các bàn nhỏ xung
quanh tổng trực ban, nơi diễn ra các cuộc họp giao ban xử lý mọi công việc hằng
ngày của Bộ tư lệnh. Tại đây, cả ngày lẫn đêm điện thoại gọi về chuông réo không
ngớt, khác hẳn với những năm tháng trước khi còn ở tây Trường Sơn phải lấy đêm
làm ngày, nay trời đất, sông nước là của ta, mọi hoạt động vận tải đã lấy ban ngày
làm chính, nên thông tin phục vụ cho Sở chỉ huy bận rộn nhiều vào buổi chiều và
tối.
Tôi nhớ vào một buổi chiều
trung tuần tháng 7 năm 1974, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên thư thái sang thăm và chuyện
trò thân mật với các trực ban, hôm đó tôi trực ban thông tin.
Vui dăm ba câu chuyện xong,
Tư lệnh nói với tôi: Trực ban thông tin gọi giúp cho mình làm việc với các anh ở
Sư công binh và Sư đoàn ô tô, tối qua bận họp khuya chưa kịp hỏi được tình
hình.
Tôi dùng ngay máy tổng trực
ban nhắc tổng đài 3000 gọi lần lượt các sư đoàn, chiến sĩ gái Đặng Thị Hà (Nghệ
An) cùng tổ trực Thoa, Thái, Thế (tải ba) đã điều chỉnh tín hiệu tiếp chuyển
liên lạc phục vụ Tư lệnh nói chuyện với Sư đoàn công binh 473, 472, 565, Sư
đoàn ô tô vận tải 571, 471 liên tục gần 1 giờ đồng hồ. Đàm thoại với các hướng
đều to rõ, trực ban chúng tôi đứng xung quanh đều nghe được làm Tư lệnh rất hài
lòng. Chia tay anh em ra về đồng chí nói "Mùa mưa này quân ta chuyển cánh
sang hướng đông gặt hái được, nếu mà còn ở phía tây thì ai ở đâu ngồi đấy chờ mùa
khô đến".
Cuối tháng 8 năm 1974, các
sư đoàn xe đã dứt điểm gọn kế hoạch cho hai chiến trường Khu 5 và Trị Thiên, bảo
đảm vận chuyển nội bộ và lập chân hàng cho năm 1975.
Ngày 26 tháng 8 năm 1974, Đảng
ủy Bộ tư lệnh Trường Sơn họp sơ kết nhiệm vụ vận chuyển mùa khô 1973 – 1974 và
chuẩn bị năm 1975 đã nhận định:
"... Năm 1974 tuyến chi
viện chiến lược kết thúc đạt tổng khối lượng vận chuyển cho các hướng được
360.043 tấn đạt 102%, bảo đảm hành quân năm 1974 bằng 155,96% so với năm 1973
và chuyển 93.000 thương binh các chiến trường về sau. Hai tuyến ống xăng dầu đã
kéo sâu vào phía nam gặp nhau tại Phi Hà. Cầu đường năm 1974 phát triển mạnh,
tuyến phía tây cải tạo được 563km, tuyến phía đông cải tạo, kết hợp xây dựng cơ
bản hơn 1.050km vào tới Đắk Min".
Cùng với sự trưởng thành của
các binh chủng, năm 1974, thông tin đã tổ chức bảo đảm liên lạc chỉ đạo, chỉ
huy tốt phục vụ Bộ tư lệnh Trường Sơn, các sư đoàn, trung đoàn trực thuộc vào nội
bộ các đơn vị. Mạng tải ba tuyến đông đã hình thành và đưa vào sử dụng có hiệu
quả, góp phần quan trọng trong thắng lợi chung của toàn tuyến.
Trong tháng 9 - 10 năm 1974,
bị một trận bão số 5, 11, 12, 13 tràn vào khu vực miền Trung, đường sá của công
binh bị sạt lở nghiêm trọng, ngày 7 tháng 11 năm 1974, Thường vụ Đảng ủy Bộ tư
lệnh Trường Sơn quyết định sử dụng một lực lượng thích hợp duy tu tuyến đường bộ
phía tây, tập trung lực lượng tối đa mở chiến dịch thi công những công trình trọng
điểm tuyến đông bắt đầu từ tháng 11 năm 1974, dự kiến kết thúc vào 30 tháng 3
năm 1975.
Vào thời điểm này mạng tải
ba đông và tây đều bị tê liệt, việc bảo đảm liên lạc đường dài từ Bộ tư lệnh đến
các đơn vị chủ yếu bằng tiếp sức và vô tuyến điện báo bổ trợ.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới,
Bộ Tham mưu Trường Sơn chỉ thị cho hai trung đoàn thông tin dây trần 49 và 596 phải
dồn sức nhanh chóng khôi phục mạng thông tin tải ba. Chỉ thị nêu rõ: Tập trung
củng cố nâng cấp đồng bộ cả dây và máy. Về dây cần chú trọng chống dò điện bằng
cách nối lại các mối nối cũ, thay sứ bị rạn nứt. Tuyến phải dọn "quang
trên sạch dưới", dây cáp, dây bọc nát xấu phải thay thế. Trên đôi dây trục
chính dùng tải ba không cho phép ai đấu đinh sử dụng liên lạc âm tần. Các trạm
cơ vụ sửa chữa nâng cấp máy cũ, đưa máy dự bị vào thay thế, điều chỉnh công suất
máy ở mức tốt nhất. Hàng ngày phải điện báo cáo về trực ban thông tin số công
lên tuyến, kết quả công việc cụ thể và chất lượng từng đoạn đã được nâng cấp.
Trên cơ sở một thế trận chi
viện chiến lược đã triển khai toàn diện vững chắc, trong đó có mạng thông tin tải
ba đường dài ở cả hai tuyến đông và tây, mạng tiếp sức và vô tuyến điện báo phục
vụ chỉ huy đều được củng cố nâng cấp thông suốt đi mọi nơi. Ngày 25 tháng 11
năm 1974, Bộ tư lệnh Trường Sơn quyết định mở màn chiến dịch vận tải mùa khô
1974-1975. Cả Trường Sơn vào trận, khẩu hiệu thi đua "Tất cả cho chiến trường
đánh to thắng lớn".
Bộ đội vận tải thực hiện khẩu
hiệu "Hàng nào cũng chở, tuyến nào cũng đi, đã đi là thắng lớn".
Thông tin của hai sư đoàn ô tô 471, 571 đã bám theo các đội hình xe lăn bánh, phục
vụ chỉ huy nội bộ bằng bộ đàm 2W, liên lạc với trên bằng 15W. Xe hàng đến nơi
giao cho mặt trận đều được kịp thời báo cáo về đơn vị và Bộ tư lệnh Trường Sơn.
Nhờ có thông tin các đơn vị đã hợp đồng tốt với lực lượng giao liên hành quân tổ
chức việc chuyên chở hai chiều đưa quân vào ra, nâng cao hiệu quả vận chuyển.
Do yêu cầu chi viện chiến
trường phát triển nhanh, lực lượng xe đi lại trên đường Trường Sơn lúc này rất
lớn, đan xen nhiều đội hình. Ngoài số xe của hai sư đoàn ô tô 471, 571 và của Cục
Vận tải tăng cường chuyên chở đưa hàng, đưa người vào chiến trường, còn có số lớn
xe vận tải hàng phục vụ nội bộ, xây dựng đường ô tô, đường ống, nên thường xuyên
trên đường có từ 5.500 - 6.000 chiếc. Do vậy, mặc dầu đường, cầu đã được nâng cấp
đáng kể, hệ thống bảo đảm xăng dầu cấp phát giải phóng xe nhanh, đặc biệt công tác
chỉ huy giao thông được tiến hành thống nhất, thông suốt, nhưng tình trạng ùn tắc
giao thông vẫn xảy ra ở những nơi đèo dốc hẹp, mật độ xe đông.
Thông tin đã phái các cán bộ
xuống hai sư đoàn xe, kiểm tra và hướng dẫn việc sử dụng mạng điện đài 2W đi theo
các đại đội và đến các đơn vị công binh bảo đảm giao thông chỉ đạo tổ chức
thông tin ở các barie nơi hay xảy ra ùn tắc để phối hợp được giữa các đơn vị xe
với chỉ huy giao thông điều khiển xe ra vào giảm thiểu ùn tắc lớn.
Trong báo cáo giao ban hàng
ngày về kết quả vận chuyển, nay không những chỉ có kết quả số xe hàng đến đích,
số xe chở người vào ra đến nơi an toàn mà còn có xe vào ra ở một số chốt giao
thông trọng điểm dọc tuyến.
"Với sự nỗ lực của các
lực lượng trên toàn tuyến, kết thúc 2 tháng cuối năm 1974, Bộ tư lệnh Trường
Sơn đã hoàn thành kế hoạch vận chuyển chi viện theo mệnh lệnh số 12/ML của Bộ Tổng
tham mưu".
Thắng lợi của những tháng ra
quân vào mùa khô 1974-1975, đã tạo được những yếu tố thuận lợi mới làm tốt cho
toàn tuyến bước vào triển khai nhiệm vụ vận chuyển năm 1975, góp phần thực hiện
quyết tâm chiến lược của Đảng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
trong thời gian nhanh nhất.
Vào những ngày cuối năm 1974
đầu năm 1975, cục diện chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ ngày càng có lợi
cho ta, các đoàn cán bộ cao cấp của Trung ương Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng,
Trung ương Cục trên đường vào, ra làm việc với Bộ tư lệnh Trường Sơn thường
xuyên.
Toàn tuyến được quán triệt
nhiệm vụ chuẩn bị cho một kế hoạch vận tải chi viện quy mô lớn lấy tên là "Chiến
dịch vận chuyển 19/5" kỷ niệm 85 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và lần
thứ 16 ngày truyền thống bộ đội Trường Sơn.
Trong khi toàn tuyến đang
ráo riết chuẩn bị triển khai kế hoạch đã định thì "ngày 15 tháng 12 năm
1974 Bộ tư lệnh Trường Sơn nhận được chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu: Tham gia chiến
dịch Tây Nguyên. Nhiệm vụ cụ thể là làm đường chiến dịch, bảo đảm đạn, lương thực,
thuốc quân y, xăng dầu... và tham gia chiến dịch".
Trước đó, vào đầu tháng 11
năm 1974, Chủ nhiệm thông tin Hoàng Đình Quý đã được đi cùng đoàn Bộ tư lệnh
nghiên cứu chuẩn bị chiến trường. Khi về đã xây dựng phương án thông tin ở hướng
phía nam. Kế hoạch được Tư lệnh phê duyệt và đó chính là nhiệm vụ cơ bản của
thông tin tiền phương về sau giải quyết.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng
tư lệnh, tiền phương Bộ tư lệnh Trường Sơn được tổ chức, Bộ tư lệnh Sư đoàn 470
được giao nhiệm vụ vận tải chiến lược, vừa trực tiếp phục vụ chiến dịch Tây
Nguyên và là lực lượng tác chiến tại chỗ. Phó Tư lệnh Nguyễn Lang được phân
công kiêm Tư lệnh tiền phương và được Quân ủy Trung ương chỉ định làm Phó Tư lệnh
chiến dịch Tây Nguyên, phụ trách hậu cần. Ông là một trong những Thủ trưởng rất
quan tâm đến việc tổ chức mạng thông tin liên lạc phục vụ chỉ huy sao cho có hiệu
quả. Khi ở cương vị là Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Trường Sơn, đồng chí nói:
"Chỉ huy chiến đấu hợp đồng binh chủng để vận chuyển mà không có thông tin
khác nào ếch ngồi đáy giếng", anh chị em thông tin rất tâm đắc lời nói đó.
Theo yêu cầu của Tư lệnh tiền
phương Nguyễn Lang, cơ quan thông tin tiền phương gồm 4 người, do Phó phòng Phạm
Đình Hiên phụ trách, giúp việc có tôi trưởng ban hữu tuyến vận tải ba, đồng chí
Lâm Thao trợ lý chiến thuật, Cao Như Đắc trợ lý vô tuyến điện.
Tiền phương được tận dụng
triệt để mạng thông tin sẵn có của Sư đoàn 470, khi triển khai được dùng lực lượng
tăng cường của Sư đoàn. Cơ vụ B28 của Trung đoàn 596 được dùng làm tổng đài tiền
phương, nơi hợp điểm 3 tuyến dây tây Trường Sơn, đông Trường Sơn và đường xuống
phía nam nối đến Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên.
Về lực lượng: Trung đoàn 596
rút quân về tiểu đoàn bảo vệ, thành lập mới Tiểu đoàn 36B, được tăng cường một
đại đội của Tiểu đoàn thông tin 15 - Sư đoàn 470 do Trung đoàn phó Trần Đức trực
tiếp chỉ huy có nhiệm vụ mắc thêm một sợi ở trên đường dây trần một sợi sẵn có
của Sư đoàn 470 và kéo dài xuống Đắk Đam (cơ vụ 31) phục vụ Bộ tư lệnh chiến dịch.
Trung đoàn 49, dùng Tiểu
đoàn xây dựng 326 vừa được điều từ Trung đoàn 596 sang, tăng cường hai đại đội
của Tiểu đoàn bảo vệ 446, do Trung đoàn trưởng Phan Khắc Thiệu trực tiếp chỉ
huy phối hợp với lực lượng xây dựng của Bộ tư lệnh Thông tin nối thông tuyến
dây từ Khâm Đức đến ngã ba biên giới.
Vật tư dây máy, thiết bị các
loại được đại đội kho trạm chuẩn bị khoảng 25 tấn, có người theo xe áp tải vào
giao cho tiền phương tại tổng kho Sê Xu (470).
Thông tin đã dồn lực lượng,
phương tiện ưu tiên đặc biệt cho tiền phương để triển khai phục vụ chiến dịch mở
màn.
Ngày 25 tháng 1 năm 1975,
trước Tết Nguyên đán Ất Mão ít ngày, đoàn tiền phương gồm một xe chở người, năm
xe chở hàng đi theo tuyến phía tây vào sau năm ngày có mặt tại Sư đoàn 470.
Đường dây trần từ Bến Giàng
vào phía nam do Trung đoàn 132 xây dựng, từng cung thông dây đến đâu giao cho Trung
đoàn 49 quản lý khai thác đến đó.
Ngày 8 tháng 1 năm 1975, dây
trần mắc đến Làng Rô - Khâm Đức (A75), đến đây không còn vật tư, thiết bị để mắc
tiếp. Theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Trung đoàn thông tin 49 - Trường Sơn phối
hợp với lực lượng xây dựng của Bộ tư lệnh Thông tin khắc phục khó khăn triển
khai bằng dây bọc theo trục đường 14 nối tiếp từ Khâm Đức vào ngã ba biên giới
dài 185km để hợp điểm với tuyến tải ba tây Trường Sơn ở cơ vụ B28 tạo thế vu hồi
liên lạc xuống phía nam chuẩn bị cho chiến dịch.
Ngày 5 tháng 2 năm 1975,
đoàn của Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng trên đường vào chiến trường
trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Tây Nguyên ghé thăm và làm việc với Bộ tư lệnh Trường
Sơn. Sau đó, đoàn đi theo đường đông Trường Sơn vào Tây Nguyên. Đến Sa Thầy (tây
Kon Tum trên 30km) đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã nói chuyện trực tiếp với đồng
chí Tư lệnh Trường Sơn bằng đường dây tải ba vừa rải đến khu vực đó với ký hiệu
mật mã rằng "Đường ra trận như ngày hội lớn, người và xe pháo đều hối hả,
sôi động vô cùng. Đồng ý ăn tết ở Bộ tư lệnh 470".
Cùng thời điểm ở tuyến đông
kéo dây bọc đến ngã ba biên giới (B28) thì ở tuyến phía nam, Trung đoàn dây trần
596 đã tổ chức thi công liên tục, hoàn chỉnh đường dây trần hai sợi nối thông
tin các cơ vụ B28, B29 (Đức Cơ), B31 (Đắk Đam) dài 276km, tiếp cận gần Sở chỉ
huy chiến dịch Tây Nguyên.
Tiểu đoàn 86 thông tin trực
thuộc Binh chủng Thông tin liên lạc, đơn vị bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ
Sở chỉ huy tiền phương Bộ tư lệnh, do hành quân bằng cơ giới vào đến địa điểm
không đem theo khí tài đồng bộ cùng xe chở người, Trung đoàn phó 596 Trần Đức
đã xử lý kịp thời, giúp cung cấp đủ dây bọc cho tiểu đoàn triển khai từ Sở chỉ
huy tiền phương Bộ (ZA75) đến trạm cơ vụ B31 (Đắk Đam) dài 62km, kịp thời phục
vụ cho Thủ trưởng Bộ chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị tham gia chiến dịch ở phía bắc.
Như vậy, nhiệm vụ củng cố và
xây dựng tuyến dây nối tiếp từ đường dây "Thống nhất" đến khu vực Sở
chỉ huy tiền phương Bộ bắt đầu từ ngày 22 tháng 1 năm 1974 đến ngày 28 tháng 2
năm 1975 đã hoàn thành bảo đảm kịp thời yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến dịch.
Trong những ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1975, đường dây phía nam do 559 phụ
trách đã phục vụ liên lạc giữa Bộ tư lệnh chiến dịch với Bộ tư lệnh Quân khu 5,
Tây Nguyên, các đơn vị tham gia chiến dịch liên tục suốt ngày đêm.
Vào 10 giờ ngày 6 tháng 3
năm 1975, tôi đang theo dõi liên lạc ở cơ vụ B28 (ngã ba biên giới) từ A40 (Hà
Nội), gọi vào, tôi nghe rõ tiếng đồng chí Lê Cư - Chính ủy Bộ tư lệnh Thông tin
liên lạc - yêu cầu nói chuyện với đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền
ở Sở chỉ huy tiến phương Bộ. Tôi đã gọi B31 (Đắk Đam), đồng chí Nguyễn Anh Xuân
trung cấp tải ba trực máy thưa vào gọi trực tiếp AZ75 - tổng đài tiền phương Bộ
- xin máy thủ trưởng Hiền. Tôi thưa và xưng danh: Tôi là Trần Hữu Đạo - Đại uý Trưởng
ban hữu tuyến điện - phòng thông tin 559 - trực ở tổng đài giữa đường, mời thủ
trưởng làm việc với đồng chí Lê Cư thông tin ở Hà Nội.
Hai thủ trưởng đều nghe được
tôi nói nhưng đàm thoại với nhau không ai nghe được ai. Tôi đã phải làm trung
gian nhắc lại cho hai thủ trưởng trót lọt cuộc liên lạc mang tính kiểm tra
trong vòng 15 phút.
Kết thúc phiên họp đàm thoại
người tôi ướt đẫm mồ hôi, quay sang bên thấy anh Phạm Đình Hiên phó phòng đứng cạnh
từ lúc nào không hay, anh như đoán được tâm trạng băn khoăn của tôi vì không điều
hành được các cơ vụ hai thủ trưởng liên lạc trực tiếp được với nhau. Anh nói: Giá
lúc này có đường dây liên lạc thông suốt tốt từ Hà Nội vào tiền phương Bộ thì
ích lợi biết bao cho Quân giải phóng. Còn đường dây của ta vừa xa vừa dã chiến,
khả năng liên lạc chỉ đạt như vậy phải chấp nhận anh ạ.
Ngày 6 tháng 3 năm 1975,
đoàn xe đặc biệt của Bộ chở cáp từ Hà Nội vào đến Khâm Đức, Bộ tư lệnh Thông
tin đã huy động lực lượng tối đa bao gồm quân của Trung đoàn 132, 136 trực thuộc
Bộ và Trung đoàn 49 Bộ tư lệnh Trường Sơn cấp tốc thay thế 185km dây bọc bằng
dây cáp FFK60. Cùng với việc đoạn dây trần trên miền Bắc từ A72 (Quảng Bình) trở
ra đã củng cố nâng cấp xong, nên trước ngày mở màn chiến dịch chất lượng liên lạc
được cải thiện, song cũng chỉ giới hạn ở từng cung không thông suốt trên toàn tuyến
được.
Từ cơ vụ A40 (Hà Nội) đến Sở
chỉ huy tiền phương ở phía tây thị xã Buôn Ma Thuột, đường dây dài tổng cộng 1.346km,
trong đó có 1.099km dây trần, 247km dây bọc, trải dài trên 3 miền đất nước Bắc,
Trung Nam, vượt qua địa hình rừng núi hiểm trở của Trường Sơn, có đoạn qua gần đồn
bốt địch vừa được giải phóng, với 14 trạm cơ vụ tiếp chuyển, các điều kiện bảo
đảm kỹ thuật tuy đã được quan tâm nhưng khả năng còn hạn chế. Do vậy, việc phát
huy tác dụng đường dây "Thống nhất" để liên lạc đường dài theo ý định
của Bộ Tổng tư lệnh không đạt được như ý muốn.
Ở tiền phương Bộ tư lệnh Trường
Sơn trong giai đoạn chuẩn bị chiến dịch rất khẩn trương sôi động. Thông tin đã nhanh
chóng lần lượt triển khai đến các đơn vị.
Với hai trung đoàn cao xạ
232, 546 và Tiểu đoàn ô tô vận tải 55, ngoài đường dây kéo trực tuyến đến còn tổ
chức liên lạc vô tuyến điện 2W khi nổ súng.
Sư đoàn phòng không 377 vừa
đặt chân đến Tây Nguyên bảo vệ Kon Tum, Plây Cu, Đức Lập, cầu 14 Buôn Ma Thuột,
thông tin đã nối liên lạc vô tuyến điện chặt chẽ hàng ngày.
Trên đường dây trục "Thống
nhất" từ Quảng Bình đến Tây Nguyên, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ khai thác phục
vụ chỉ huy do Trung đoàn thông tin 49 của Trường Sơn đảm nhiệm. Đặc biệt đoạn từ
Khu 5 đế Sở chỉ huy tiền phương Bộ và Sở chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, cán bộ
chiến sĩ canh dây, tổng đài trong điều kiện phải ở dã chiến, lấy tăng võng làm
nhà, gạo thiếu nước hiếm, nhưng thay nhau túc trực suốt đêm ngày phục vụ cho tiền
phương Bộ, Bộ tư lệnh chiến dịch, các sư đoàn, trung đoàn trong đội hình tham
gia chiến dịch để luôn liên lạc thông suốt, kịp thời trong giai đoạn chuẩn bị
chiến dịch.
Đề phòng khả năng khi mặt trận
chính nổ súng, địch có thể tăng viện ở
phía bắc xuống, cần phải giữ thông tin liên lạc vững chắc cho Bộ tư lệnh chiến
dịch chỉ huy. Sáng 9 tháng 3 năm 1975, đồng chí Nguyễn Lang quyết định giao cho
tôi chỉ huy phân đội 20 người trong đó gồm một tổ đài 15W, một tiểu đội đường
dây và dây máy điện thoại cấp tốc cơ động nhanh bằng xe Zin đi ngược ra phía bắc
túc trực, sẵn sàng khôi phục liên lạc ở giữa cung đoạn Plây Cu - Buôn Ma Thuột.
Ở hướng Trung đoàn công binh
575, có nhiệm vụ sửa chữa khôi phục các đường 48, 50, mở một trục dọc và hai nhánh
50C, 50Đ bí mật cho xe tăng tiếp cận Buôn Ma Thuột dài 60km. Từ giữa tháng 2,
ban thông tin đã bố trí một tổ hữu tuyến điện đi theo trung đoàn. Để giữ được
bí mật mà vẫn liên lạc tốt, chúng tôi đã dùng loại dây bọc cực nhỏ (chuyên dùng
cho đặc công, 1km nặng khoảng 2kg) để mắc từ cơ vụ B31 (Đắk Đam) đến Sở chỉ huy
Trung đoàn, khi trung đoàn di chuyển thông tin kéo dây theo. Do vậy, ngày 4
tháng 3 năm 1975, đường mở đến bản Lơ Lia – Chư Mơ Nga, cách thị xã Buôn Ma Thuột
20km mà địch không hề biết. Trung đoàn đẩy mạnh thi công, đúng 23 giờ đêm 9 tháng
3 năm 1975 đã khai thông trục đường 50B, hai nhánh 50C, 50D sẵn sàng bảo đảm đội
hình cho xe tăng tấn công. Trung đoàn trưởng Nguyễn Lang không giấu nổi vui mừng
báo cáo những công việc cuối cùng và đánh giá của Bộ tư lệnh chiến dịch Tây
Nguyên về thực hiện nhiệm vụ tham gia chiến dịch của bộ đội Trường Sơn với Tư lệnh
Đồng Sĩ Nguyên ở Bến Tắt (Quảng Trị). Niềm vui phấn khích qua giọng nói của hai
thủ trưởng Bộ tư lệnh ở hai đầu tuyến vang qua điện thoại làm vui lây và vơi đi
tâm trạng bồn chồn thấp thỏm trước giờ nổ súng với anh chúng tôi.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, ta
nổ súng tấn công Buôn Ma Thuột, cuộc tấn công đồng loạt của ta trên khắp chiến trường
Tây Nguyên, đòn "điểm huyệt" Buôn Ma Thuột đã làm cho quân địch ở Tây
Nguyên tan vỡ nhanh chóng.
Đại tướng Văn Tiến Dũng từ mặt
trận trực tiếp điện thoại ra cho Tư lệnh tiền phương Nguyễn Lang: Không cho chúng
chạy thoát! Và ra lệnh cho Sư đoàn ô tô vận tải 471 tổ chức lực lượng xe cơ động
Sư đoàn 320 bộ binh truy kích địch rút chạy trên đường số 7 (Cheo Reo - Phú Bổn)
và cơ động Sư đoàn 10 bộ binh theo đường 14 xuống phía nam giải phóng thị xã
Buôn Hồ, truy kích địch đến Đạt Lý.
Sáng 18 tháng 3 năm 1975,
tôi đang cùng phân đội cơ động trực chiến ở phía nam Plây Cu, nhận được lệnh của
Phó Tư lệnh Nguyễn Lang do thông tin tiền phương truyền trực tiếp: "Đồng
chí Trần Hữu Đạo tổ chức một tổ công tác biệt phái có điện đài đi cùng, xuống
ngay thị xã Phú Bổn vừa giải phóng, thị sát thực tế báo cáo về tiền
phương".
Tôi hỏi thêm anh Hiên, đi bằng
xe nào? Và thống nhất quy ước liên lạc vô tuyến điện về tiền phương.
Trưa 18 tháng 3 năm 1975,
tôi cùng tổ đài 15W và hai chiến sĩ trên đường đi xuống Phú Bổn. Xe lao nhanh
trên đường 14 đến ngã ba Chư Sê rồi vào đường 7, cách thị xã khoảng 3km gặp một
đồn địch vừa bị Quân giải phóng tiêu diệt ngày hôm trước. Khu nhà lính ở và kho
tàng vẫn còn nghi ngút khói lửa, trên các sân và bãi trống quân trang, quân dụng...
của địch vứt bỏ lại ngổn ngang. Bên lề đường hai xe tải bị đổ, cái bị lật ngửa
bốn bánh lên trời, cái đổ nghiêng, máu người thấm trên đường còn hiện rõ. Tôi
cho dừng xe quan sát sự việc. Nhìn bên cạnh các xe đổ, thấy đường bị bung lên
thành hố chưa kịp lấp đầy, chúng tôi đoán chắc là xe bị mìn chống tăng của địch.
Tôi bàn cùng anh em phải cẩn thận vượt qua, chần chừ lúc này là nguy hiểm. Tôi
yêu cầu mọi người rời khỏi xe và đi cách xa, chỉ còn lại đồng chí Quýnh lái xe
và tôi có nhiệm vụ "xi nhan" cho xe lăn bánh đúng vết bánh xe đã đi
trước. Hết đoạn đường cho là nguy hiểm, anh em leo lên xe đi tiếp.
Vào đến đầu thị xã gặp một tổ
cảnh giới Quân giải phóng mũ tai bèo, đeo băng đỏ xanh, tay lăm lăm súng AK chặn
xe lại, tôi xuống trình giấy tờ, các đồng chí xem xong chỉ đường đi vào Ban
quân quản thị xã và nhắc cần cảnh giác đề phòng tàn quân địch còn ẩn núp chống
trả.
Đến thị xã, chúng tôi được
chứng kiến một cảnh tượng chiến thắng lẫy lừng của quân ta trước một thảm bại
kinh hoàng của địch mà trong chúng tôi chưa ai từng thấy.
Ở đường lộ chính của thị xã
dài khoảng hơn 2km và đoạn đường nhánh rẽ sang cầu Ya Nu qua sông Ba (thượng nguồn
sông Đà Rằng) đã bị phá gục nhịp giữa sông có đến gần nghìn xe cơ giới đủ loại
bị quân ta chặn đánh không kịp thoát chạy. Bên mố cầu và cạnh thân cầu giữa
sông có 5 xe tăng cái ngập nước, cái bung xích chết đứng trên đường, các bãi ruộng,
bờ suối liền bên có đủ loại xe tăng, thiết giáp, xe ca chở khách, xe du lịch
sang trọng và xe lam chen rúc vào nhau hỗn độn như nêm. Cái bị bắn cháy, bắn hỏng,
có nhiều xe còn nguyên vẹn, biết lái nổ máy là đi được ngay. Dưới sự kiểm soát
của bộ đội quân quản không thấy bóng người dân nào vào khu vực này.
Ngoài ra còn có đến vài trăm
xác lính ngụy bị tiêu diệt, ngã gục 2 bên đường, dưới gầm, trên thùng xe và cả
trên ca bin. Vì trời khô nắng nên chiến sự mới dứt hai ngày mà tử thi đã trương
lên đen thũi, mùi tử khí nồng nặc, ruồi muỗi nhiều vô kể. Từng đàn quạ nháo
nhác bay lên, đỗ xuống như ở một bãi tha ma ảm đạm.
Dừng xe cạnh một nhà dân bỏ
trống, tôi cùng 2 chiến sĩ sẵn trong tay súng đạn đã lên nòng, đi bộ lách qua
các đám xe và xác địch tìm đến ngôi nhà giữa thị xã có treo cờ giải phóng. Tôi
xuất trình giấy tờ và nói rõ nhiệm vụ được Phó Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Lang
giao. Còn quân chủ lực Sư đoàn vẫn đang truy kích bọn tàn quân địch rút chạy, lực
lượng quân quản quá mỏng nên chưa kịp giải quyết hậu quả thu dọn chiến trường.
Tối đó, tôi viết điện báo
cáo về tiền phương tình hình trực tiếp quan sát được. Hôm sau có điện thông báo
lại "Bộ tư lệnh chiến dịch sẽ tổ chức ngay việc thu dọn chiến trường và ổn
định đời sống dân cư" - ký tên Lang.
Chúng tôi ở Phú Bổn 4 ngày
mà tưởng như rất lâu. Hàng ngày nắm tình hình, tối viết điện báo cáo. Công việc
tạm ổn thì được lệnh rút về Plây Cu, khi về đem theo một số chiến lợi phẩm thu
được gồm xe tải, xe zép và một số khí tài Thông tin để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp
theo, tập kết tại sân bay Cù Hanh.
Ngày 21 tháng 3 năm 1975,
tôi nhận được điện của Trưởng phòng Hoàng Đình Quý: Đón xe đặc chủng tiếp sức đi
thẳng vào Plây Cu, đặt trạm ở núi Hàm Rồng - ngã ba Bầu Cạn, liên lạc về đài
chóp cao điểm 1264 và trực tiếp với đài Sư đoàn 470, bỏ đài trung gian T2 (Bạc),
T3 (Chà Vằn) bảo đảm liên lạc từ Sở chỉ huy cơ bản Bộ tư lệnh đoàn với Sư đoàn
470 hàng ngày.
Ngày 23 tháng 3 năm 1975,
trên đỉnh núi Hàm Rồng hai cột ăng ten tiếp sức xương cá đã được dựng lên bên cạnh
dàn ăng ten hiện đại của Mỹ - ngụy vừa mới bị quân ta phá hủy cách đây ít ngày
khi giải phóng Plây Cu. Cùng ngày thông liên lạc tốt đã phục vụ rất kịp thời
cho Bộ tư lệnh chỉ đạo, chỉ huy Sư đoàn 470, 471 làm nhiệm vụ phát triển xuống
phía nam.
Ngày 25 tháng 3 năm 1975,
Tây Nguyên hoàn toàn được giải phóng. Bộ đội thông tin cùng các binh chủng khác
của bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ tư lệnh chiến dịch
giao.
"Theo chỉ thị của Bộ Tổng
tư lệnh được chuyển qua mạng tiếp sức phía đông vừa nối thông, Sở chỉ huy tiền phương
Đoàn 559 chuyển vào thị xã Buôn MaThuột, trực tiếp chỉ đạo Sư đoàn 470 tiếp thu
kho tàng, chủ yếu là cụm kho Mai Hắc Đế của quân ngụy, khai thác chiến lợi phẩm
bổ sung cho chiến trường, đồng thời triển khai ngay lực lượng bảo vệ vùng giải
phóng Kon Tum, Plây Cu".
Qua Đài phát thanh tiếng nói
Việt Nam, được tin: ngày 26 tháng 3 năm 1975, Huế hoàn toàn được giải phóng,
ngày 29 tháng 3 năm 1975, thành phố Đà Nẵng lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ
quân sự liên hợp của địch và bán đảo Sơn Trà cũng đã thuộc về nhân dân làm chủ
hoàn toàn. Tình hình chuyển biến rất mau lẹ.
Tôi nhận được lệnh thu quân
cơ động về Buôn Ma Thuột để chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Khi đi ra theo đường ô
tô dã chiến trong rừng, nay trở lại xe bon nhanh trên quốc lộ 14 trải nhựa vừa
hoàn toàn được giải phóng, khuôn mặt ai cũng rạng rỡ niềm hân hoan chiến thắng.
Gặp lại anh Hiên, anh Thao,
anh Đắc cùng anh em thông tin tiền phương ngay bên các tòa nhà kiên cố, hệ thống
ăng ten đồ sộ của trung tâm truyền tin của địch ở Tây Nguyên, ai cũng bùi ngùi
xúc động, mừng cho nhau đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và an toàn trong cuộc chiến
đấu sinh tử vừa qua.
Sở chỉ huy tiền phương Bộ tư
lệnh Trường Sơn chuyển đến Buôn Ma Thuột được bố trí trong một gian nhà rộng và
thoáng giữa khu kho Mai Hắc Đế. Hàng ngày chuông điện thoại reo từ các tổ chốt
của quân quản thành phố do Sư đoàn 470 đảm nhiệm gọi về, đường dây tiếp sức gọi
đến, điện đài sóng ngắn 15W chuyển nhận các công điện với các đơn vị trực thuộc,
các mặt trận vẫn liên tục không ngớt.
Cũng dịp này thông tin tiền
phương nhận được điện chỉ đạo của đồng chí Tham mưu phó Nguyễn Tụng: "Tây Nguyên
đã được giải phóng, nhưng tuyến vận chuyển đông và tây Trường Sơn vẫn tiếp tục
hoạt động ở quy mô lớn và liên tục, yêu cầu các lực lượng thông tin phía nam tập
trung duy trì bảo đảm liên lạc tốt để phục vụ chỉ huy vận chuyển chiến lược thắng
lợi trong mọi tình huống".
Hàng ngày thông tin tiền
phương nhận thông báo tình hình diễn biến của chiến trường và truyền tin đến
các đơn vị về "Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và các
nơi khác".
Cơ sở khẳng định thời cơ chiến
lược để giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi, Bộ Chính
trị quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định - lấy tên là chiến dịch
Hồ Chí Minh.
Đảng ủy, Bộ tư lệnh Trường
Sơn đã ra mệnh lệnh và hiệu triệu gửi các đơn vị trên toàn tuyến: "Cùng với
cả nước, bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh hãy dốc hết lực lượng và quyết
tâm cho chiến dịch mang tên Bác".
Thông tin liền huy động toàn
bộ lực lượng và khả năng cùng các binh chủng bạn phục vụ cho trận đánh cuối
cùng. Các trạm cơ vụ, đài tiếp sức, đài vô tuyến điện báo lại hối hả truyền đi
khắp các nẻo đường đông, tây Trường Sơn mệnh lệnh bảo đảm hành quân. Tất thảy lực
lượng dân công, thanh niên xung phong phải ngày đêm túc trực bảo đảm cầu đường.
Chỉ trong một đêm, các phương tiện thông tin đã truyền đạt xong mệnh lệnh, xốc
lại thế trận, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các mũi hành quân.
Hai sư đoàn ô tô vận tải đã
được giải quyết trang bị tổ chức bảo đảm liên lạc khi cơ động đội hình lớn trên
đường. Chúng tôi rất vui sướng khi đọc điện báo cáo lên Bộ tư lệnh: "Từ cuối
tháng 3 đầu tháng 4, trong vòng 20 ngày, Sư đoàn 571 đã huy động hơn 1.000 đầu
xe, cơ động gọn đội hình Quân đoàn 1 với toàn bộ trang bị khí tài vượt 1.200km
đường Trường Sơn vào tới đích Đồng Xoài sớm hơn 6 ngày so với thời gian quy định.
Và cùng thời gian, chỉ trong 10 ngày đầu tháng 4, Sư đoàn 471 đã cơ động toàn bộ
đội hình Quân đoàn 3 và Sư đoàn 2, Sư đoàn 3B Quân khu 3 vào Lộc Ninh đúng thời
gian quy định".
Trưa 7 tháng 4 năm 1975, Sở
chỉ huy tiền phương Trường Sơn nhận được bức điện tối khẩn số 157-H-TK, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp hạ lệnh:
"Thần tốc, thần tốc hơn
nữa
Táo bạo, táo bạo hơn nữa
Tranh thủ từng giờ từng phút
Xốc tới mặt trận, giải phóng
miền Nam
Quyết chiến và toàn thắng”
Các phương tiện thông tin lập
tức lên mạng thông báo ngay toàn văn điện "thần tốc" đến các đơn vị.
Trong thời điểm cả nước cùng
ra trận, mệnh lệnh hành quân, mệnh lệnh chiến đấu của Đại tướng như một lời hịch
vang dậy núi sông, huy động mọi người vào trận, sôi sục khí thế để tiến đến
ngày toàn thắng. Cán bộ, chiến sĩ thông tin toàn tuyến trên vành mũ, vách nhà tổng
đài, cơ vụ, trạm canh dây, trạm máy ở đâu cũng có khẩu hiệu "Thần tốc -
Táo bạo - Tất thắng".
Khi cánh quân Duyên Hải được
thành lập, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên được cử làm Phó tư lệnh cánh Duyên Hải. Phòng
thông tin bố trí tổ xe điện đài đi trực tiếp phục vụ giữ vững liên lạc cho Tư lệnh.
Sau khi cánh quân Duyên Hải phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang, giải phóng
Nha Trang, Bộ tư lệnh Trường Sơn quyết định chuyển Chỉ huy sở cơ bản vào Nha
Trang, đặt tại Trường hạ sĩ quan thông tin của địch ở Đồng Đế mà ta vừa tiếp quản,
Bến Tắt trở thành hậu cứ, còn Sở chỉ huy tiền phương vẫn ở Buôn Ma Thuột.
Theo lệnh của Tham mưu trưởng
Bộ tư lệnh Trường Sơn, trong một tuần thông tin phải tổ chức xong đường trục tiếp
sức ven biển nối giữa Nha Trang và Bến Tắt. Đại đội 4 tiếp sức Tiểu đoàn 16
thông tin tổng trạm đã thu quân, dùng ba xe công trình xa theo quốc lộ 1 tiến
qua các vùng mới giải phóng, có nơi còn nghi ngút khói lửa đến các cao điểm bán
đảo Sơn Trà - Đà Nẵng, Núi Ấn - Quảng Ngãi, Rù Rì - Nha Trang. Nơi ở cao không
có đường xe lên anh em tháo máy khuân vác bộ lên, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Ngày 13 tháng 4 năm 1975, thông suốt liên lạc đúng thời gian quy định.
Để từ Nha Trang liên lạc được
với tiền phương Buôn Ma Thuột bằng tiếp sức, anh em đã đặt trạm tiếp chuyển ở
đèo Phượng Hoàng (giữa đường quốc lộ 21 Ninh Hòa - Buôn Ma Thuột). Bộ tư lệnh rất
hài lòng và biểu dương thành tích xuất sắc mới của thông tin tiếp sức.
Tại Sở chỉ huy Nha Trang, mạng
thông tin được tổ chức rất gọn nhẹ, một tổng đài 40 số dùng liên lạc nội bộ,
liên lạc đường dài chỉ còn tiếp sức. Mạng vô tuyến điện báo vẫn được duy trì
liên lạc chặt chẽ với tất cả các hướng, các đơn vị. Đặc biệt được chú ý là đài
15W cơ động đi theo phục vụ bộ phận đại diện Bộ tư lệnh Trường Sơn bên cạnh Bộ
tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh do đồng chí Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy phụ trách.
Ngày 22 tháng 4 năm 1975, tại
Nha Trang, Bộ tư lệnh triệu tập hội nghị khẩn cấp cán bộ chủ trì các đơn vị trực
thuộc. Tư lệnh thông báo tình hình phát triển của chiến dịch, nhiệm vụ chung của
bộ đội Trường Sơn và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Ngay sau hội nghị
thông tin vô tuyến điện đã kịp thời chuyển nhanh bức điện của Bộ tư lệnh đến
các đơn vị tham gia phục vụ chiến dịch, động viên cán bộ, chiến sĩ phát huy
truyền thống của bộ đội Trường Sơn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Một bộ phận lớn bộ đội vận tải
Trường Sơn đã trở thành phương tiện cơ giới hoá bộ binh ở các mũi tấn công đang
sẵn sàng xung trận, tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định - Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử.
17 giờ ngày 26 tháng 4 năm
1975, tổng công kích vào Sài Gòn - thủ phủ của chính quyền Sài Gòn bắt đầu.
Trên các hướng và mũi tiến công của các quân đoàn chủ lực, hai sư đoàn xe ô tô
571 và 471 của Trường Sơn đã tham gia cơ động lực lượng để đưa quân ta tiến vào
nội đô, các đơn vị công binh bảo đảm giao thông trên các trục lộ chính, bộ đội đường
ống xăng dầu bảo đảm nhiên liệu cho xe cơ giới hoạt động. Ở khắp mọi nơi có lực
lượng tham gia bảo đảm phục vụ chiến đấu, thông tin đều bố trí điện đài đi cùng
để giữ liên lạc.
Không khí Sở chỉ huy Bộ tư lệnh
Trường Sơn các ngày 28-29 tháng 4 năm 1975 có những lúc căng thẳng tột độ bởi các
tin tức điện báo từ các mũi tiến công gửi về. Nhiều bức điện vừa mã dịch xong,
chữ còn tươi mực đã được đọc trước Bộ tư lệnh ngay. Tin Sư đoàn 304 gặp địch
kháng cự quyết liệt ở ngã ba đường 15, Lữ đoàn 203 gặp khó khăn ở cầu sông
Buông, Sư đoàn 325 bị địch khống chế ở phà Cát Lái... Trong cơn giãy chết, kẻ địch
liều mạng chống đỡ gây cho ta nhiều tổn thất. Nhưng mọi phản ứng của kẻ thù chỉ
là những điều báo mộng giờ tuyệt vọng, cáo chung của chính quyền và quân đội
Sài Gòn đã đến.
Sáng 30 tháng 4, tin tức điện
về liên tục cho biết, từ nhiều hướng các quân đoàn 1, 2, 3, 4 đồng loạt tiến
công dũng mãnh vào nội đô Sài Gòn, lần lượt đánh chiếm những trọng yếu.
Đúng 11 giờ 30 ngày 30 tháng
4, xe tăng Lữ đoàn 203 đã tiến công dinh Độc Lập, tổng thống Dương Văn Minh
cùng nội các chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Cờ giải phóng đã
tung bay trên tầng cao dinh Độc Lập.
Điện từ Bộ tư lệnh chiến dịch
Hồ Chí Minh, điện từ đại diện Bộ tư lệnh Trường Sơn báo về, báo vụ của Tiểu
đoàn 16 thông tin Tổng trạm nhận xong, cơ yếu túc trực mã dịch ngay bên cạnh Sở
chỉ huy, chỉ sau giây phút Bộ tư lệnh đã có tin tức ngay. Cùng lúc Đài tiếng
nói Việt Nam truyền đi bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Dương Văn Minh.
Tin vui dồn nén ngạt thở đến
mọi người, các chiến sĩ thông tin của 2 trung đoàn dây trần đang bảo vệ phục vụ
liên lạc ở 2 tuyến đông, tây Trường Sơn, các chiến sĩ tiếp sức trên các đỉnh
núi cao heo hút dọc ven biển Đông và Tây Nguyên, các nam chiến sĩ thông tin của
các tiểu đoàn, đại đội thông tin trên toàn tuyến, những người kế tục lớp đàn anh,
đàn chị đi trước, không chùn bước trước bom đạn kẻ thù, vượt mọi hiểm nguy,
gian khó, thay nhau "Thức cùng Trường Sơn" liên tục 16 năm qua, giữ vững
mạch máu thông tin liên lạc trên tuyến đường mang tên Bác, tất cả như đều trào
dâng đều phấn khích lạ thường trong ngày lịch sử trọng đại đáng ghi nhớ này
"ngày mà cả đời người mới có một lần, thậm chí cả nhiều đời mới có một lần",
như lời Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh đã nói sau giờ
phút toàn thắng với các đồng chí cán bộ, chiến sĩ trong Bộ tư lệnh chiến dịch
mà Đài tiếng nói Việt Nam, vô tuyến truyền hình, báo chí đã dẫn và nói nhiều lần
mỗi khi vào dịp kỷ niệm chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Tôi và một số anh em cơ quan
được may mắn hòa trong không khí chiến thắng cùng dòng người đông như nêm trên dọc
các đường phố chính vừa đi vừa phất cờ reo hò, ca hát vang động cả đất trời.
Trong đám đông quần chúng, nhiều người thay nhau hô vang các khẩu hiệu
"Cách mạng muôn năm, muôn năm". "Chào mừng Quân giải phóng chiến
thắng"... cứ thế kéo dài đến đêm khuya.
Vào bưu điện thành phố, tôi
gửi lá thư ngắn về quê báo tin cho gia đình biết. Ít lâu sau về thăm gia đình
tôi được nghe kể lại: nhận được thư của tôi cả nhà mừng lắm, bố, mẹ, vợ, con
tôi vui sướng quá ai cũng òa lên khóc, khóc mừng vì đất nước được hòa bình, con
mình còn sống sẽ trở về. Đúng là nước mắt dành cho ngày chiến thắng, dành cho
ngày vui đoàn tụ sau hàng chục năm khắc khoải đợi chờ!
Ngày tôi chia tay gia đình
vào tuyến cuối năm 1965, khi đó vợ tôi đang mang thai đứa con đầu lòng. Biết đi
Nam chiến đấu là vào nơi gian khổ ác liệt, trực tiếp đối mặt với quân thù, sáng
sớm hôm tiễn tôi lên đường ra ga Từ Sơn đi tàu Hà Nội để nhập đoàn vào miền
Nam, vợ tôi xách chiếc đèn bão đưa tôi đến cổng làng, bịn rịn phút chia ly
không ai nói nên lời, mắt cứ tràn nhòa lệ. Tôi đi xa hàng cây số, nhìn về vẫn
thấy ánh đèn còn đó, có lẽ chờ cho khi khuất bóng, vợ mới trở về nhà.
Hình ảnh quê hương, những
người thân yêu cùng bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, sống chết trong 10 năm liền ở Trường
Sơn cứ đan xen trong tâm trí tôi theo từng bước chân đi sống động, bùi ngùi.
Đêm 30 tháng 4 năm 1975, ở Đồng
Đế ít ai ngủ được, mọi người như đều mong trời chóng sáng để được chia sẻ cùng
nhau niềm hân hoan chiến thắng.
Trong im lặng của bầu trời
thanh bình đầy sao và sóng biển rì rào của thành phố biển Nha Trang, tôi bồi hồi
nghĩ về Trường Sơn.
Hình ảnh những ngày đầu được
theo chân đơn vị đặt chân đến Trường Sơn, ngỡ ngàng trước núi rừng trùng điệp hoang
sơ. Rồi những năm tháng cùng đồng đội lặn lội men theo các tuyến đường ô tô vận
tải, vượt đèo lội suối băng sông để khảo sát và mắc dây thông tin đặt máy liên
lạc, cảnh mưa ngàn, suối lũ, nắng hạ, đói cơm, nhạt muối, sốt rét, bom rơi, đạn
nổ, hy sinh tổn thất và thông tin thông suốt... cứ diễn ra liên tục nối tiếp
nhau trong từng ngày, cả tháng, suốt năm tưởng như không chấm dứt.
Sâu sắc và lắng đọng hơn cả
là những ngày đầu bỡ ngỡ mắc dây trần, những ngày tôi được giao nhiệm vụ đi tổ
chức bảo đảm thông tin ở trọng điểm ác liệt Cốc Mạc - Văng Mu, Cua Chữ A, Ta Lê
- Phu-la-nhích, ở mặt trận tây Trị Thiên A Sầu A Lưới, chiến dịch Đường 9 - Nam
Lào... Đó là những nơi đã diễn ra những cuộc giao tranh ác liệt giữa chiến tranh
ngăn chặn của ta. Bom đạn địch giội xuống hòng phá đường, phá kho, tiêu diệt
quân ta liên tục suốt đêm ngày. Mặt đất có lúc chao đảo như đưa võng, núi rừng
bị cày xới, đào lên lấp xuống tưởng như không thể nào tồn tại được sự sống con
người. Nhưng cũng chính nơi đây bộ đội thông tin Trường Sơn cùng bộ đội binh chủng
bạn đã làm nên sự tích anh hùng, người này mất người khác thay thế bám trụ đến cùng,
giữ vững mạch máu thông tin liên lạc bảo đảm chỉ huy hiệp đồng chiến đấu chiến
thắng quân địch, khơi thông trọng điểm cho nườm nượp đoàn xe ra trận, đoàn quân
đến các chiến trường.
Hình ảnh đồng chí Nho - chiến
sĩ khảo sát bị mảnh bom lòi ruột ở rừng trong đêm tối, đồng chí Trương Công Bào
bị bom cướp đi mất một chân khi đang chỉ huy bộ đội mắc dây, cơ vụ B16 cùng một
lúc 13 người bị bom xé nát xương thịt không ai còn nguyên vẹn. Chiến sĩ gái tổng
đài 3000 Lương Thị Trúc trên đường khôi phục dây bị trúng bom hy sinh vào lúc
tuổi đẹp nhất cuộc đời. Cả Ban thông tin và tổng đài Sư đoàn 473 bị pháo đài
bay B52 cướp đi sự sống trong lúc đang làm nhiệm vụ... Và hàng trăm các tấm gương
hy sinh kiên cường, anh dũng khác tôi được chứng kiến còn thấm đậm trong tâm
trí tôi.
Ngay trong những năm cuối của
chiến tranh. Bộ tư lệnh Trường Sơn đã tổ chức xây dựng nghĩa trang Trường Sơn. Với
hơn một vạn mộ liệt sĩ được quy tập về lần đầu trong đó có hàng trăm liệt sĩ
thông tin. Còn hàng vạn đồng chí, đồng đội khác vẫn còn nằm đâu đó, mà thời
gian cứ trôi qua, chắc gì đã còn mà đưa họ về quê hương đất mẹ. Máu xương của họ
hoà tan vào cỏ cây, đất đá, sông suối, mây trời của Tổ quốc là điều khôn nguôi
của những người còn sống.
Núi rừng Trường Sơn nơi tôi
đã sống, chiến đấu và công tác hàng chục năm gian khổ, ác liệt, đã có biết bao
kỷ niệm không thể nào quên.
Đến nay, sau gần 30 năm, những
người đã từng trải ở Trường Sơn hồi nghĩ lại vẫn còn kinh ngạc về sự kỳ vĩ và mức
độ ác liệt của Trường Sơn. Con đường Trường Sơn đã đi đến chiến thắng và đã đi
vào tình cảm của hàng triệu trái tim.
Nhà báo Mỹ Jacques
C.Despuech đã thường trú ở Việt Nam suốt thời gian chiến tranh viết:
"Đường Hồ Chí Minh ấy -
mạng đường ra trận dày đặc, dài hàng chục ngàn cây số, luôn luôn bị trọng pháo
và bom phá, tạo thành những túi lửa khổng lồ suốt đêm ngày. Vậy mà nó vẫn cứ
như mạng nhện muôn ngả, thật sự thành công cụ trọng yếu duy nhất trong lịch sử
chiến tranh Việt Nam".
"Nếu đem các con đường
từng coi là huyền thoại trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, như con đường
voi đi qua dãy núi Aepes của danh tướng Anibal, hay con đường chuyển trọng pháo
qua đèo Saint Bernard của hoàng đế Na-pô-lê-ôn, đặt bên đường Hồ Chí Minh thì
chúng đều kém cỏi quá xa.
Vì đường Hồ Chí Minh không
chỉ là vật thể mà còn là con đường tâm linh, con đường dân tộc... nên nó có sức
sống thật vô cùng kỳ diệu"1.
Đường Trường Sơn - Đường Hồ
Chí Minh vĩnh viễn đọng lại trong lịch sử như "Một trong những thành công
kiệt xuất của đường lối chính trị và quân sự của Đảng ta"2 như
"một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc"3
như một thiên anh hùng ca bất tử của nhân dân ta, tiếp thêm sức mạnh cho mọi thế
hệ bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với mục tiêu
như Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra là: "Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ, văn minh".
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký
ức Cựu chiến binh Thông tin”)
---------------------------------
1 Trích bài viết của
Nguyễn Việt Phương.
2 Thư Đại tướng Tổng
tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi bộ đội Trường Sơn.
3 Ghi lưu niệm sổ vàng
đường Trường Sơn của đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam.