28/10/24

Anh phải sống (một chuyến liên lạc đặc biệt)

Đồng chí Lê Bá Hồi (kể), Nguyễn Thị Mão (ghi)

Năm 1949 tôi được lệnh lên Bộ Tổng Tham mưu nhận công tác. Tôi được giao nhiệm vụ phải đưa một sĩ quan (người Nhật) về Liên khu 3, trao tận tay Tư lệnh trưởng Văn Tiến Dũng vì Mặt trận Liên khu 3 lấy được một số pháo của địch mà chưa biết sử dụng.

Người Nhật này là quan ba pháo binh của quân đội Thiên Hoàng trốn sang hàng ngũ quân ta (ngày phải giải giáp đi theo quân Đồng minh về nước). Anh ta dáng người to mập, nét mặt lầm lỳ, chậm chạp, ít nói.

Lệnh của đồng chí Hoàng Văn Thái: "Cậu phải bằng mọi giá để bảo vệ, đưa anh ấy an toàn về Khu 3, trao tận tay đồng chí Tư lệnh trưởng".

Tôi hứa... "sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, dù phải hy sinh". Xuất phát từ Việt Bắc, có tôi và một liên lạc viên, đưa anh người Nhật đi. Cuộc hành trình êm ả, đã đến địa giới Khu 3, nơi hoạt động của quân Pháp, đến sông Kinh Thầy, quãng đó gọi là "Quế Lãnh" cách bốt Đông Triều hơn cây số. Phải vượt sông ban đêm, không được dùng đò, để giữ bí mật.

Tôi hỏi: Anh có biết bơi không? Anh người Nhật gật đầu... Tôi bàn với anh cùng đi, ở đây có cói tươi của đồng bào trồng, ta nhổ một ít làm cái phao để anh Nhật bám vào cho đỡ mệt, và chúng ta đẩy đi, là chắc ăn; ý kiến đó được thực hiện.

Không ngờ ra đến giữa sông bó cói vỡ tung, trôi tan tác, anh Nhật thì chìm nghỉm (té ra anh ấy không biết bơi). Tôi vội lặn xuống túm được anh, dùng đầu nâng đẩy anh lên mặt nước, lúc đó anh ho sặc sụa, tôi sợ địch gần đó phát hiện thì nguy, nên dùng bàn tay bịt chặt miệng anh, rồi nâng đầu anh lên khỏi mặt nước đẩy anh tiến vào bờ.

Tôi đã cảm thấy anh quá nặng, mà cách bờ còn xa, người mệt rã rời, chợt nhớ tới lời đồng chí Tổng Tham mưu trưởng dặn dò, như nhắc nhở tôi "phải cứu cho được anh Nhật, anh phải sống" tự nhiên trong tôi như được tiếp thêm sức mạnh, và tôi đã vật lộn với sóng nước không biết bao lâu. Đột nhiên, một cảm giác vui mừng như người sắp chết đuối được cứu hộ, đó là chân tôi đã chạm đất; niềm vui đó tiếp thêm sức mạnh, tôi vác anh lên vai, vịn cỏ cây, trèo lên bờ, đặt anh xuống đất, anh nằm im như đã chết. Tôi gọi cậu cùng đi, anh ta cũng nằm gần đó, nói tiếng đứt quãng... em mệt quá không dậy được...

Nỗi lo sợ anh người Nhật chết, tôi vội cầm chân, vác ngược anh lên vai, chạy vòng quanh, may quá nước trong mồm anh ộc ra rất nhiều, tôi đặt anh nằm trên thảm cỏ, làm động tác hô hấp, xoa ngực, cử động chân tay cho anh.

Một lúc sau, anh thở mạnh, và trong ánh sao đêm, đôi mắt anh đã mở to, tôi sung sướng quá, như muốn reo lên. Lúc đó đồng chí cùng đi đã ngồi dậy được, hỏi tôi "đã tỉnh chưa anh", tôi đáp khẽ: anh ấy tỉnh rồi, cậu lại đây.

Hai chúng tôi cùng xoa bóp liên tục cho anh, tự nhiên tôi tâm sự: Ngày còn bé mình đã mê bơi lội, làng mình có cái hồ tên là "hồ dài" rộng và dài lắm, cứ mỗi ngày đi học về là mình chỉ bơi ở đó, không chơi gì khác, có hôm bơi liền hàng tiếng dưới hồ, quên cả ăn cơm. Trong đám trẻ làng, nếu thi bơi lặn bao giờ mình cũng nhất, cũng nhờ bơi lội mà mình rất khỏe, chẳng ốm đau gì.

Anh bạn đồng tình, nói thực vậy, em thấy anh quá khỏe, nếu đêm nay không có anh, có lẽ anh người Nhật đã trôi tận đâu rồi.

Mải nói chuyện, anh người Nhật đã ngồi dậy được, anh cầm tay tôi vẻ biết ơn và trìu mến. Tôi mừng quá, xoa thêm dầu gió cho anh, hỏi anh đỡ mệt chưa? Anh mỉm cười gật đầu.

Chúng tôi thầm thì trò chuyện, bên bờ sông Kinh Thầy trong đêm vắng vẻ. Gió dưới sông phả lên mát rượi, như tiếp thêm nguồn sinh lực cho chúng tôi chuẩn bị lên đường. Tôi nhẩm tính, từ đây đến vùng tự do của Khu 3 khoảng hơn chục cây số, đường đi qua đất của 4 huyện Chí Linh, Kinh Môn, Thạch Thành, Thanh Hà, có ba trạm gác, ba bến đò, toàn người của ta, nằm trong xã (ngày làm tề ngụy, đêm làm Việt Minh), thành phần già có, trẻ có, thanh niên, phụ nữ có, những người này được ủy ban các xã cử ra để giúp đỡ quân dân, cán bộ đi về (đường dây này do tôi tổ chức và phụ trách).

Tôi quyết định lên đường, hai người chúng tôi xốc nách anh bạn Nhật đứng lên và dìu đi chầm chậm, anh cũng tỏ ra cố gắng bước theo chúng tôi.

Đến trạm giao liên đầu tiên, tôi làm ám hiệu, rồi ngồi chờ, một lúc sau thấy người vác vó tiến về phía chúng tôi cũng bật lửa hút thuốc. Nhận ra người của mình, chúng tôi theo cụ vào nhà, ăn uống, nghỉ ngơi cho lại sức rồi đi tiếp. Cứ thế, theo đường dây, chúng tôi đã đến Bộ Tư lệnh Liên khu 3. Đồng chí Tư lệnh trưởng Văn Tiến Dũng tiếp nhận, khen ngợi, cảm ơn chúng tôi.

Cầm giấy tiếp nhận, tạm biệt Quân khu và anh bạn người Nhật, chúng tôi quay về Việt Bắc, báo cáo đồng chí Hoàng Văn Thái: Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”) 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét