25/10/24

Kỷ niệm những năm tháng trong hậu địch Quân khu 3

Hoàng Xuân Giáp - Nguyên Trưởng đài vô tuyến điện

Về 101 tôi được phục vụ liên lạc mạng Nam Bộ và Khu 5, được bác Thanh "già" và chị Nga giúp đỡ về chuyên môn, nên nhanh chóng đảm nhiệm mọi ca vững vàng, càng làm càng hăng không biết mệt. Có hôm cháu Bình, con chị Nga quấy, tôi xung phong trực thay ca để nâng cao tay nghề, mong sớm được đi chiến dịch.

Vừa ấm chỗ quen việc, thì tôi nhận lệnh bổ sung cho Đại đoàn Bình Trị Thiên. Vì là nhiệm vụ bí mật quân sự nên lẳng lặng ra đi không liên hoan tạm biệt, chắc lúc đó 101 cũng không mấy ai quan tâm lắm bởi chiến dịch Tổng tấn công, Bộ đang tung cán bộ ra tiền phương, kẻ trước người sau lần lượt ra đi.

Tổ về Nam, vừa đi được năm cây số thì ngựa đuổi theo gọi tôi và các anh: Phù, Sáng, Tuân dừng lại trao quyết định không đi Bình Trị Thiên nữa mà chuyển về Khu 3 vào Thái Bình, Kiến An, Hải Hưng.

Bốn chúng tôi đều là dân Nghệ Tĩnh, đã bàn với nhau về thăm nhà trước lúc vào chiến trường. Lệnh mới đổi hướng từ lên rừng nay lại xuống biển, việc đó có xá chi, "đâu có giặc là ta cứ đi", chỉ xao xuyến là xa nhà lâu ngày ra trận mà chưa được về thăm quê và người thân, đã hơn ba năm không tin, không thư, anh nào cũng nao nao bần thần.

Lúc vào trạm nhận quyết định mới, đồng chí quân lực quan sát chúng tôi và hỏi: "Vào địch hậu các đồng chí có thắc mắc băn khoăn gì chăng?".

Một chốc suy tư rồi bình tĩnh, tôi trả lời:

- Có ạ, bốn anh em là dân Nghệ Tĩnh nay vào địch hậu, khó mà giữ được bí mật vì cái giọng xứ Nghệ dễ gì học được giọng Khu 3. Địch hậu thì bí mật là yếu tố quan trọng nhất ạ!

Đồng chí cán bộ quân lực (là ai chúng tôi đâu có biết) trả lời ngay:

- Trên đã cân nhắc và chọn lọc, rất tin các đồng chí sẽ hoàn thành nhiệm vụ, còn các đồng chí lo thì không ảnh hưởng gì đến công việc cả, vì yêu cầu các đồng chí nói bằng tay tối đa và nói bằng miệng tối thiểu.

Câu trả lời rắn chắc và nhắc chúng tôi giữ mồm giữ miệng vì hoạt động địch hậu.

Tới Chi Nê chúng tôi tìm đến trạm giao liên, chờ đoàn vào khu, lo lắng tìm hiểu tình hình và chuẩn bị trang bị.

Bốn chúng tôi vừa ở Trung Quốc về, anh nào cũng vác một ba lô gói to và nặng toàn quần áo kaki Trung Quốc mới toanh, sổ sách, bút giấy tất cả là đồ Tầu, từ chân tới đầu, thế là phải đổi bớt cho mấy anh ở vùng địch hậu ra đi học. Tôi chỉ giữ lại chiếc đồng hồ "Vile" của Thiếu tướng Trần Tử Bình, Hiệu trưởng Trường Lục quân tặng lúc về nước.

Hai bộ bà ba, một mặc, một cho vào tay nải cùng cái màn con đeo lủng lẳng bên vai, đầu đội nón và bắt đầu tập đi chân đất, lội bùn. Nhẹ cái vai lại nặng cái đầu từ đây.

Đoàn vào Khu 3 khoảng hai chục cán bộ, do một o du kích khoảng 17 tuổi dẫn đường. Chúng tôi ra đi vào khoảng 20 giờ, không đèn đuốc, không tạm biệt om sòm, tất cả đều im lặng và suy tư bởi sắp bước vào con đường chiến đấu không ranh giới, không giới tuyến; trời tối đen như mực, tất cả chỉ mặc áo lót và quần đùi, tay nải gói chặt trong một tấm nilông, lúc này rất hiếm và quý vì nó còn là phao để vượt sông và cũng là chiếu chăn lúc mưa rét; vũ khí và trang bị nay chỉ còn đơn giản là tinh thần chiến đấu.

Lội đồng Hà Nam nước ngập gần cổ, phải cố bám sát nhau mà đi, vì quá tối mà không có đường, tất cả là một cánh đồng nước, mà đích là các bốt địch, đèn sáng trưng, lâu lâu bắn lên một phát pháo dù chiếu sáng để quan sát, cứ lơ lửng mươi phút mới tắt, lúc có đèn là phải đứng yên tất cả, mặt nước phản chiếu càng sáng thêm rõ mồn một. Lúc ra đi chỉ vài chục cán bộ, sao bây giờ có tới bảy tám chục người, hỏi cô giao liên mới biết đó là số các ông các bà ra kháng chiến thăm con, vợ ra thăm chồng, họ phục kích rất bí mật, cứ thấy đoàn bộ đội vào Khu là họ theo, phần lớn là dân Thái Bình và Nam Định. Đi được vài giờ, chú ý quan sát mới biết đường đi là tuyến giữa hai bốt Tây có đèn sáng sẽ an toàn. Nguy hiểm nhất là vượt đường cái quan, các vùng tề công giáo, nhưng đáng sợ nhất là vượt đường số 1 Bắc Nam, xe địch tuần tra liên tục và lính nằm sẵn phục kích, có lần cất vó cả đoàn.

Lo và hồi hộp, ngày ngủ, đêm đi, rồi cũng tới Khu bộ. Anh Thân trưởng Ban 3 ra tiếp đón, bố trí cho chúng tôi nghỉ ngơi để ổn định tinh thần nhận công tác.

Qua tìm hiểu, chúng tôi mới biết đang ở trên đất Quỳnh Côi - Thái Bình, còn làng xóm đường sá ra sao chưa rõ, chỉ biết ăn ở tại nhà cơ sở và "chờ ở đó".

Mới ngủ được một đêm yên giấc trong nhà, trên tấm cánh cửa gỗ nhà chủ, thì nửa đêm hôm sau vừa chợp mắt, có liên lạc gọi bốn anh em dậy đi tập trung ngay. Chúng tôi xách tay nải chạy ra sân đình thì thấy hàng ngũ đã chỉnh tề. Vừa đứng vào hàng Ban 3, thấy một ông to khỏe, vai đeo tay nải, tay cầm gậy ra đứng trước sân đình (đồng chí Đỗ Mười) tuyên bố to: "Địch lại tổ chức càn lớn, nhằm bắt cơ quan Bộ chỉ huy, nay hai mặt sông canô tuần tiễu, bộ binh rải vây đồn ta từ đây ra Biển Đông". Vậy tối nay ta phải mở đường máu vượt sông sang Nam Định, một ngả đồng chí Tham mưu dẫn vượt sông sang Kiến An.

Tôi được biên chế xuống Kiến An, đi sâu ra tận mép biển, Quân khu bộ đã vượt vây an toàn. Nhớ cuộc hành quân không thể quên trong đời, từ Vân Nam về Việt Bắc, Đội 101, rồi vào Kiến An - Hải Phòng chỉ với một "đôi chân vạn dặm". Tôi về phụ trách đài trưởng Hải Kiến, vì lúc đó Ban chỉ huy Hải Phòng và Kiến An là một.

Đã có đơn vị sinh hoạt, đã có công việc làm, cuộc sống thật là bình thản và yên lặng vì kín đáo, xa chợ búa, xa đường cái, hạn chế giao tiếp, liên tục chuyển địa điểm, cứ ba ngày một lần. Hai đêm ngủ và làm việc liên lạc, lại một đêm hành quân và đào hầm bí mật phòng địch càn. Căng thẳng và gian khổ ngày qua ngày. Sinh hoạt lâu đã quen và vào nền nếp, chỉ có một nỗi khổ âm ỉ là muốn nói mà không được nói, hạn chế nói, hạn chế giao tiếp.

Đài ở trong tổ chỉ huy chiến đấu của tỉnh gồm: đồng chí Bí thư tỉnh, Tỉnh đội trưởng (đồng chí Đặng Kinh sau này là Tổng tham mưu phó Quân đội), cơ yếu, tôi và hai quay viên - gọn nhẹ, việc ai người ấy làm ít khi hội họp.

Bề ngoài thấy bình lặng, ngày lại qua ngày. Một hôm vừa làm xong đồng chí cơ yếu rỉ tai tôi hỏi máy móc thế nào, pin còn đủ không? Tôi ngạc nhiên sao ông ấy lại lo cho mình, tôi còn chần chừ thì ông ấy nói luôn: "Tối mai đài phải đi phục vụ đó". Tôi hỏi đi đâu để chuẩn bị, ông không nói mà bảo phải chọn một máy tốt và gọn nhẹ, thế là tôi chọn bộ SCR-694 máy mới thu được ở bốt Hệ đưa đi, còn cái Sinen hộp gỗ thì gói nilông giấu ở hầm.

Sáng hôm sau, đồng chí Đảng - cơ yếu, tôi và anh Thơm - quay viên hành quân cấp tốc ban ngày, vượt qua mấy bốt Tây xuống tận xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng bên sông Văn Úc nhìn sang Đồ Sơn. Vào một nhà cơ sở ở địa phương chuẩn bị, tôi vào buồng kín để lắp máy, căng ăngten lên ngọn cau và bắt liên lạc với đài Bộ (101) và Liên khu bộ. Suốt ngày có điện liên tục báo cáo việc chuẩn bị vào đánh chiếm điểm X. Chiều tối mọi việc đã xong thì anh Đặng Kinh - Tỉnh đội trưởng xuống và ngồi cạnh đài. Ăn cơm xong, anh đứng ngồi không yên, cứ đi ra, đi vào lo âu, anh lệnh cho tôi xin đài Bộ trực chiến Kiến An đêm nay. Rồi cứ lâu lâu, tôi lại gọi thử liên lạc, vẫn tốt.

Bỗng thấy góc trời phía Hải Phòng bừng cháy khói nghi ngút, tiếng nổ vang trời. Anh Kinh vào đưa tôi bức điện báo chuyển ngay cho Bộ. Bây giờ tôi mới rõ là ta tập kích sân bay Cát Bi.

Bao vui mừng phấn khởi được đi phục vụ một trận tập kích lịch sử, nhìn về Cát Bi như một biển lửa, lòng trần ngập sung sướng.

Đêm đã khuya, trời mưa mù nặng hạt, tôi gọi hai ba lần vẫn không thấy trả lời bắt đầu lo, cứ nóng mặt lên mà gọi nhưng vẫn không bắt được liên lạc. Anh Kinh đứng cạnh mong chờ, đồng chí Thơm quay mướt mồ hôi mà vẫn ZAN. Tỏ thái độ thông cảm, anh nhẹ nhàng chỉ thị: "Ta đã đánh đúng, đánh lớn, địch sẽ trả đũa. Chúng ta phải rút về Vĩnh Bảo ngay đêm nay, ở địa điểm cũ, sáng ra là không vượt sông được nữa. Các đồng chí gọi một lần nữa không được thì cho đóng máy rút về ngay, nếu bị vây thì có thể bỏ máy mà vượt về. Báo cáo sau cũng được, mai các đài thế giới sẽ báo trước chúng ta". Rồi đồng chí đi ngay.

Gọi lần nữa vẫn ZAN, đúng là thử kêu đốt xịt. Chỉ còn lại hai anh em đài làm đã mệt, cái mệt nhất lại bị ZAN; cấp tốc rút về cơ sở với quyết tâm phải giữ lấy đài để trưa mai về bắt liên lạc tốt báo cáo Bộ. Vai nặng, chân đau vì đường trơn, vừa đi vừa chạy, cái máy nặng cứ đập vào xương sống kêu lục cục, hai anh em cắm đầu chạy qua làng xóm vẫn yên ngủ, bốt địch vẫn sáng đèn, nó giúp chúng tôi xác định đúng hướng vượt sông an toàn về tới Địch Lương - Vĩnh Bảo, cơ sở tỉnh. Mặt trời đã lên cao, hai anh em lại lắp máy liên lạc, mình đau ê ẩm, xương sống sưng u lên, lúc đó tôi giơ tay xem mấy giờ thì ôi thôi chiếc đồng hồ "Vile", tặng phẩm của Thiếu tướng Hiệu trưởng tặng tôi, với lời dặn dò: “Vô tuyến điện là cần đúng giờ, vậy phải có đồng hồ tốt"; tôi có vẻ e ngại, đồng chí nói tiếp "Cứ lấy để làm việc chứ ở nhà hiếm lắm". Trong lúc chạy vượt vây, một kỷ niệm cũ đã rơi mất!

Công việc gấp, tôi hỏi khắp nơi để mượn đồng hồ, nhưng ở các xóm nghèo ai cần gì đồng hồ mà mua. Thế là chiếc đồng hồ đeo tay của Tỉnh đội trưởng lại về tay tôi, lúc này tất cả vì công việc chung. Chuyển xong bức điện, hai anh em thở phào như trút được gánh nặng; đi suốt đêm, mãi tới trưa vẫn chưa có gì ăn, rủ nhau tìm cái gì lót dạ đã. Ra cửa gặp các anh Ban chính trị cho biết đài các nước đã đưa tin tập kích sân bay Cát Bi, đốt cháy nhiều máy bay.

Làm xong ca chiều, lệnh đóng máy sớm, ăn sớm, hành quân sớm, tôi lại thấy lòng phấn chấn. Tuy nhiên, tôi vẫn ấm ức về chuyện tối hôm trước. Đài bạn là ai? Cớ sao lại ZAN; một đợt phục vụ không trọn vẹn! Cái "ZAN" cay đắng, ngậm ngùi cho mãi tới bây giờ.

Thế mới biết nỗ lực của riêng bản thân chưa đủ, vô tuyến điện là phải hợp đồng đồng bộ chớ bỏ những cuộc hẹn như vậy. Có lẽ bạn tôi ở xa kia đâu có biết hẹn vì một biển lửa đang bốc cháy ở Cát Bi.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét