25/10/24

Kể chuyện đại quân vượt Sông Hồng tiến vào Tây Bắc

Nguyễn Đình - nguyên cán bộ Tiểu đoàn 303

Thu đông 1952, bộ đội ta được lệnh: Tiến vào Tây Bắc. Đây là địa bàn chiến lược quan trọng, có diện tích khá rộng, nhưng mật độ dân số thấp.

Giải phóng Tây Bắc là yêu cầu cấp bách của cách mạng nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng nhân dân các dân tộc anh em Thái, Mường, Mán, Dao... đang rên xiết dưới sự kìm kẹp của quân xâm lược và phong kiến phìa, tạo.

Muốn tiến vào Tây Bắc, phải vượt Sông Hồng. Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 303 phải đảm bảo thông tin chỉ huy vượt sông thông suốt và kịp thời bằng hữu tuyến điện.

Cách đây đã 48 năm rồi, song tôi không bao giờ quên được sự kiện vượt sông và thực thi nhiệm vụ thông tin lúc đó.

* Tôi đi làm ngoại giao.

Ban chỉ huy Tiểu đoàn phân tích: nhiệm vụ rất nặng nề, nhiều khó khăn, phương tiện dây máy đơn vị ít, quân số hạn chế, yêu cầu mạng thông tin chỉ huy chiến đấu phía trước rất lớn, nếu tỏa mạng chỉ huy vượt sông bằng dây máy, quân số của đơn vị sẽ không đủ thời gian thu hồi và đưa lên phía trước. Do đó phải phối hợp với thông tin bưu điện, tận dụng phương tiện, nhân viên của họ trong mạng vượt sông.

Hồi đó tôi là cán bộ doanh tác Tiểu đoàn - cái tên nghe là lạ, thực chất là trợ lý tham mưu. Tôi được giao nhiệm đi liên hệ với lãnh đạo Ty Bưu điện Yên Bái với tấm giấy giới thiệu của Bộ yêu cầu dành ưu tiên cho quân sự.

Quán triệt yêu cầu nhiệm vụ trên giao, hiểu rõ khó khăn về quân số của Tiểu đoàn, tôi tự xác định: "đi ngoại giao này quan trọng lắm đấy". Do đó tôi tự chuẩn bị cho mình từ ăn mặc đến thái độ giao tiếp, ứng xử, phương pháp trình bày nhiệm vụ và yêu cầu thông tin sao cho ngắn gọn mà rõ ràng. Kể cả lý lẽ về chiến tranh nhân dân tôi cũng chuẩn bị. Khi cần thuyết phục họ thông cảm thì "tuôn ra" ngay. Tôi đến gặp ông Trưởng ty Bưu điện Yên Bái với "bộ cánh" mốt của cán bộ thời đó. Thực ra cũng chỉ là bộ quân phục bằng vải phin màu lông ngựa phát cho cán bộ từ trung đội trở lên. Có khác chăng là ở chỗ sạch sẽ, được vuốt thẳng thắn và bên ngoài được khoác thêm chiếc “bờludông canađiêng”. Ông tiếp tôi tại một căn nhà tạm lợp lá cọ ở ngoại vi thị xã hoang tàn. Ông mời tôi uống trà búp, đặc sản của địa phương. Tôi mời ông hút thuốc lá Côtáp, loại thuốc thơm gọi là "sang" hồi ấy, từ trong địch hậu lọt ra vùng tự do. Tôi đưa giấy giới thiệu và xin đi vào việc. Tôi trình bày mạch lạc, ngắn gọn nhiệm vụ vượt sông, yêu cầu thông tin vượt sông, thông tin quân dân phối hợp phục vụ. Không biết với dáng vẻ một sĩ quan trẻ, lại có phần đẹp trai, lịch sự từ ăn mặc đến giao tiếp có gây được cảm tình hay ấn tượng gì không mà ông Trưởng ty đã nhanh chóng vui vẻ chấp nhận các yêu cầu đặt ra. Ông nói vui một câu: Thông tin dân sự cũng như thông tin quân sự đều cùng chung đánh giặc cả mà. Vậy là hợp đồng được ký kết. Tôi phấn khởi trở về báo cáo Tiểu đoàn đồng thời cũng nhận luôn nhiệm vụ phụ trách mạng.

* Sự ra đời và hiệu quả của mạng thông tin quân dân phối hợp.

Theo thỏa thuận, kể từ ngày N trong 6 ngày đêm liền tính từ 16 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ ngày hôm sau, Bưu điện Yên Bái dành toàn bộ tổng đài Cổ Phúc, toàn tuyến đường trục Yên Bái - Cổ Phúc, Cổ Phúc - Trái Hút dài khoảng 60 km cho quân đội sử dụng. Một nhân viên ở tổng đài phối hợp phục vụ, hai tổ bảo vệ tuyến đường trục sẵn sàng khắc phục khi có sự cố. Ngoài thời gian khống chế trên Bưu điện hoạt động bình thường. Hai bên lưu ý phải giữ bí mật tuyệt đối.

Về phía đơn vị, tôi có trong tay 8 km dây bọc, 6 máy lẻ, 8 chiến sĩ điện thoại và 6 chiến sĩ chuyển đạt.

Trước ngày N một ngày, tôi đến tiếp thu tổng đài Cổ Phúc và triển khai mạng thông tin vượt sông.

Tôi cho mắc từ tổng đài Cổ Phúc đi Xóm Bưởi (cơ quan tiền phương Bộ) khoảng 2,5 km, đặt một máy lẻ, 2 chiến sĩ điện thoại và tổ chuyển đạt 2 người trực ở đó. Mắc đường đấu đinh từ đường trục bưu điện đi bến Âu Lâu 1 và 2, khoảng 2 km, đặt 2 máy lẻ, 3 chiến sĩ điện thoại và tổ chuyển đạt 2 người trực ở đó. Mắc đường dây đấu đinh thứ hai ở đường trục bưu điện đi bến Mậu A1 và 2 khoảng 2,5 km, đặt 2 máy lẻ, 3 chiến sĩ điện thoại và tổ chuyến đạt 2 người trực ở đó.

16 giờ ngày N tôi kiểm tra lần cuối và đưa mạng vượt sông vào cấp 3, nghĩa là sẵn sàng phục vụ. Từ tổng đài Cổ Phúc gọi đi Xóm Bưởi, Âu Lâu 1, 2, Mậu A1, 2 tất cả thông suốt, âm thanh rõ. Ôi chúng tôi thật sung sướng. Tuy được phép theo dõi các cuộc điện đàm nhằm biết được chất lượng âm thanh, khả năng liên lạc để kịp thời can thiệp khi có sự cố, song suốt 4 đêm liền mạng chúng tôi đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Bộ. Từ các bến sông, các cấp trung đoàn, đại đoàn, các phái viên của Bộ đã báo cáo đều đặn về Xóm Bưởi tiến độ vượt sông, đại đội nào đã sang hết, tiểu đoàn nào mới bắt đầu,... Xúc động nhất là khi theo dõi các

cuộc nói chuyện của các đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, các anh xin chỉ thị trước khi lên thuyền, họ chúc nhau chiến thắng, hẹn gặp lại. Lúc này tôi càng cảm nhận vinh dự của đơn vị, của chính mình đã đóng góp phần nhỏ bé nhưng rất cần thiết cho việc chỉ huy đại quân vượt sông thắng lợi.

* Những đêm hội kháng chiến.

Trên một khúc Sông Hồng, bến Âu Lâu và bến Mậu A cách nhau khoảng 50 km, ở hai bến sông này đã diễn ra 4, 5 đêm liền một sự kiện hết sức kỳ vĩ, đó là:

- Hơn 3 vạn người, trang bị từ đầu đến chân đủ súng to, súng nhỏ, đạn dược, gạo muối, lừa ngựa, phương tiện chiến tranh đã hội tụ về đây.

- Khoảng 500 chiếc thuyền gồm phần lớn là thuyền gỗ, thuyền nan, một số thuyền độc mộc, phà loại nhỏ cùng nhiều bè, mảng nhỏ cũng tụ hội về đây. Ban ngày số người cũng như số thuyền bè nói trên "tàng hình" ở đâu không biết, nhưng khi màn đêm buông xuống thì những bóng người ấy cứ nườm nượp, lặng lẽ trèo lên những thuyền, bè mảng, phà đã đợi sẵn, để rồi lại lặng lẽ sang sông. Chuyến tiếp chuyến hối hả đi về lặng lẽ. Không một ánh lửa, không một tiếng nói to, chỉ có tiếng thì thầm, tiếng lách cách va nhẹ của vũ khí cùng tiếng mái chèo khua nước, tiếng rì rào sóng vỗ vào 500 mạn thuyền di động trên sông dưới ánh trăng bàng bạc hạ tuần. Ba vạn bóng người đó là các đại đoàn chủ lực, các tiểu đoàn bộ đội địa phương, các đơn vị dân công hỏa tuyến lặng lẽ sang sông, khẩn trương, náo nức, sôi sục căm thù, khát khao chiến thắng.

Ai được chứng kiến cái không khí ở hai bến sông này trong thời kỳ đó mới cảm nhận sâu sắc không khí những đêm hội kháng chiến. Người người đi chiến dịch như đi hội vậy!

Cuộc vượt sông bí mật, an toàn, thành công tuyệt vời đã làm cho địch có mắt như mù, có tai như điếc. Chỉ đến khi quân ta tiêu diệt đồn Sài Lương, Ca Vịnh (13-10-1952), bao vây chặt Nghĩa Lộ - Pác Chăng (16-10-1952) mới thấy xuất hiện máy bay "Đầm già" và "Hencát" của địch xoi mói, lùng sục, bắn phá trên khúc sông mà quân ta đã vượt qua mấy hôm trước đó.

* Tình yêu sơn cước.

Kim Oanh là người thị xã Yên Bái, gốc Thái Mường La. Em có khuôn mặt trái xoan, thanh tú, tóc dài buông xõa tự nhiên, mắt đen huyền, làn da trắng mịn, thân hình mảnh mai nhưng cân đối với những đường cong đẹp trong bộ quần áo hơi chẽn màu hạt dẻ. Đặc biệt em có nụ cười mê hồn: một lúm đồng tiền với hàm răng đều trắng muốt, tự nhiên, hoang dã như bông hoa rừng ven suối. Hơn thế nữa, giọng nói của em vô tư, ngọt ngào, lôi cuốn như tiếng chim rừng. Em tốt nghiệp trung cấp bưu điện.

Đó là cô gái trẻ tiếp tôi khi tôi đến tiếp nhận tổng đài Cổ Phúc. Thật bất ngờ khi em tự giới thiệu là nhân viên bưu điện được giao nhiệm vụ phối hợp phục vụ quân đội. Qua giây phút ngỡ ngàng, tôi lấy lại bình tĩnh. Bằng một động tác mạnh mẽ của người lính, tôi dập hai gót giày săng đá vào nhau và giơ tay chào: Báo cáo em, anh Nguyễn Đình, sĩ quan thông tin có mặt... Em cười khúc khích mãi, khi tôi bỏ tay xuống vẫn chưa thôi.

Tự nhiên, tôi linh cảm thấy những gì có thể xảy ra, nếu không tự xác định được mình ngay từ đầu. Tôi định thần rất nhanh và tự xác định: là một sĩ quan, lại đang chịu trách nhiệm về một mạng thông tin liên quan đến hàng vạn con người, chỉ có thể là người anh tin cậy, xứng đáng của em và coi Kim Oanh như là em gái của mình. Thế rồi qua giao tiếp, trao đổi công việc, qua ăn cơm, uống nước, tôi dùng thái độ chân thành, cởi mở, tự nhiên nhưng không suồng sã để xác định ranh giới.

Qua 3 đêm trực, tôi đâu biết em nghĩ gì về tôi. Chỉ biết em thường chăm lo cho tôi ở những bữa ăn. Bữa ăn thời chiến tuy đơn sơ nhưng rất chu đáo, nên bữa nào tôi ăn cũng cảm thấy ngon và rất vui. Em còn lo cho tôi những điều rất nhỏ khác như giấy trắng, bút mực và đèn bão đã thắp sẵn, vặn nhỏ hạt đỗ khi đêm vừa buông xuống trên bàn trực của tôi. Đúng ra là em chỉ trông nom tổng đài vào ban ngày, chứ không phải trực máy. Nhưng em cứ năn nỉ xin trực cả về đêm. Tôi không chịu thì em vẫn ngồi đó, nấn ná không chịu đi nghỉ. Làm sao tôi lại có thể nặng lời với em được. Tôi đành chấp nhận, nhưng trong đầu lại nảy ra ý đồ "phải buộc em có điều kiện". Tôi đột nhiên hỏi một câu "vô tiền khoáng hậu": Kim Oanh còn nhớ khái niệm về "lim" trong toán học không? Em ngỡ ngàng, nhớ chứ "lim" nghĩa là phạm vi giới hạn, mà anh hỏi để làm gì? Tôi đáp: để kiểm tra trí nhớ của em. Anh đồng ý cho em trực máy, trực cả về đêm, nhưng phải có "lim" để còn bảo đảm sức khỏe và làm hậu cần nữa chứ. Chỉ đến khi đó tôi mới buộc em đi nghỉ được. Chúng tôi đều hoàn thành các phiên trực.

Việc gì phải đến thì sẽ đến. Một lần vào đêm trực thứ 4 khi ngồi bên cạnh tôi, em rụt rè đặt bàn tay em lên tay tôi rồi bóp mạnh. Tự nhiên hai bàn tay chúng tôi hút chặt vào nhau như nam châm hút sắt. Tôi cảm thấy hơi ấm nồng nàn từ người con gái hình như có cả mùi thơm hoa bưởi từ mái tóc dài của em. Không biết cái giờ khắc ấy kéo dài bao lâu. Không, chắc chỉ trong khoảnh khắc thôi, em nói với tôi qua hơi thở gấp gáp: Em thương anh nhiều lắm. Tôi hiểu cái thời chúng tôi, người ta nói thương nghĩa là yêu rồi đấy. Khoảng cách giữa tôi và em vẫn được giữ vững mặc dù nó mong manh nhưng vẫn trong sáng.

Đến gần sáng, tôi nhận điện gọi và biểu dương tất cả anh em tham gia mạng phục vụ vượt sông. Cho thu hồi mạng. Bàn giao trang bị và lực lượng phối hợp Bưu điện, đến tối sang sông đuổi theo đơn vị, tập trung ở Ba Khe.

Chờ trời sáng, tôi lệnh cho các tổ thu dây, hẹn địa điểm tập trung để sang sông. Tôi gọi điện trực tiếp cảm ơn ông Trưởng ty Bưu điện về sự phối hợp và giúp đỡ Thông tin quân đội hoàn thành nhiệm vụ.

Kim Oanh cùng vài người bạn đồng nghiệp tiễn tôi ra phía bến sông. Ở một khúc ngoặt con đường, bất ngờ em níu tôi lại nói nhỏ "Anh đi rồi... em sẽ buồn nhớ anh lắm. Không biết rồi anh có còn nhớ tới em không?". Giọng em hơi ngắt quãng và trên má em nhòe nước mắt. Tôi đã ôm chặt em, hôn lên trán lên mái tóc em và nói vội: Anh hẹn gặp lại em sau chiến dịch.

Chiến dịch kết thúc thắng lợi, tôi xin phép đơn vị về thăm em. Nhưng lòng tôi quặn đau khi được tin: Oanh đã bị máy bay giặc Pháp ném bom giết hại khi những ngón tay thon mềm đang tiếp dây trên "phích" tổng đài.

Vậy là:        "Không chết người anh nơi khói lửa

Mà chết người em gái nhỏ hậu phương”

(Màu tím hoa sim - Thơ Hữu Loan)

Tôi ít khi khóc, nhưng khi đến viếng mộ em hôm ấy hai bờ mi tôi nhòe nước mắt... Tôi đặt mấy cành hoa mua hái vội lên mộ em. Thôi, vĩnh biệt em - Đóa hoa rừng - Tình yêu sơn cước.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1")

0 nhận xét:

Đăng nhận xét