Đại tá Phạm Ngọc Chuẩn
Sau ngày Tổng khởi nghĩa cướp
chính quyền ở Hà Nội, chúng tôi được lệnh chuẩn bị một tổ đài vô tuyến điện
theo phục vụ Đoàn quân Tây tiến đánh bọn tàn quân Pháp ở Vân Nam - Trung Quốc
đang lăm le quay lại vùng Tây Bắc nước ta, đồng thời cũng để dè chừng bọn “Tầu
Tưởng” mà chúng tôi quen gọi là bọn “Tầu phù” với danh nghĩa quân Đồng minh vào
Việt Nam giải giáp quân Nhật.
Lúc này Sở Vô tuyến điện Việt
Nam, nơi chúng tôi công tác vừa giành lại được từ tay bọn Nhật, đang bộn bề
trăm việc. Sở phải tổ chức lại toàn mạng vô tuyến điện để Trung ương Đảng,
Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy toàn quân, toàn quốc; lại
còn phải đảm trách phần kỹ thuật phát sóng cho Đài Tiếng nói Việt Nam, với yêu
cầu phát sóng đúng vào ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường
Ba Đình.
Tuy vậy, Giám đốc Sở đã cử
tôi và anh Trần Viêm, là hai kỹ thuật viên tách ra khỏi tổ phát sóng Đài Tiếng
nói Việt Nam sang làm việc này. Chỉ trong vài ngày, hàng tạ thiết bị thu phát
vô tuyến điện, vật tư, máy phát điện, pin nước, xăng dầu... đã được kiểm tra,
bao gói sẵn sàng.
Sáng ngày 3 tháng 9 năm
1945, đoàn chúng tôi lên đường. Đồng chí Nguyễn Công Môn, một đài trưởng kỳ cựu
được cử làm trưởng đoàn. Tôi và anh Trần Viêm là hai kỹ thuật viên trẻ, vốn là
học sinh trường kỹ nghệ Hà Nội, tốt nghiệp loại ưu, phụ trách kỹ thuật. Đài còn
có 3 hiệu thính viên có tay nghề giỏi.
Vào thời kỳ này, đường từ Hà
Nội lên Tây Bắc rất khó đi, không có đường ô tô. Do vậy, chúng tôi đành phải
hành quân bộ. Khi đến thị trấn Phương Lâm, Hòa Bình, được sự giúp đỡ của chính
quyền và các đoàn thể Việt Minh, chúng tôi chuyển xuống thuyền, ngược sông Đà
lên Suối Rút, rồi Vạn Yên. Tới Vạn Yên, khi thuyền vừa cập bến, chúng tôi được
một phân đội Tây tiến đã túc trực chờ sẵn, bốc hết số thiết bị, vật tư lên bờ rồi
chuyển về bản Vật, cách huyện lỵ Mộc Châu chừng 5 cây số. Chúng tôi đóng quân tại
tư dinh ông La Văn Minh, Chủ tịch lâm thời Ủy ban hành chính tỉnh Sơn La. Nơi
đây bấy giờ cũng là bản doanh của Chi đội Tây tiến và nhiệm sở Cơ quan đại diện
Tổng bộ Việt Minh tại Sơn La.
Đến bản Vật, chúng tôi triển
khai ngay công việc đặt đài và rất may mắn, ngay buổi lên máy đầu tiên đã bắt được
liên lạc với Hà Nội, với tín hiệu khá tốt QSA4, khiến chúng tôi vui mừng khôn
xiết.
Đài làm việc luôn từ buổi
đó. Tuần đầu 4 phiên/ngày với Hà Nội. Từ tuần thứ hai trở đi, do yêu cầu nhiệm
vụ đài duy trì phiên liên lạc tăng từ 2 đến 3 lần. Đồng chí Lê Hiến Mai và
Hoàng Sâm còn yêu cầu chúng tôi chuẩn bị gấp cho một đài đi phục vụ bộ đội đang
làm nhiệm vụ ở Tuần Giáo, Sơn La và Bắc Lào.
Trước yêu cầu đó, chúng tôi
điện về Hà Nội xin thêm thiết bị. Việc chở được thiết bị lên không dễ nên chúng
tôi nghĩ cách tìm đến các cơ sở bưu điện cũ ở Mộc Châu, Vạn Yên tìm kiếm các điện
đài cũ của Pháp bỏ lại trong các kho đồ nát. May thay, sau một vài ngày chúng
tôi đã lượm được một số máy thu phát vô tuyến điện cũ nát mang về lau chùi,
phơi sấy, sửa chữa, lắp ráp lại thành 3 bộ máy thu phát vô tuyến điện đồng bộ,
sẵn sàng đi làm nhiệm vụ.
Cùng lúc các thiết bị vừa
chuẩn bị xong thì nhận được lệnh lên đường. Đồng chí Trần Viêm mang đài lên Tuần
Giáo. Tôi mang một đài theo đại đội Lê Tuấn Sơn vượt đèo Pa Háng sang Bắc Lào
đánh bọn tàn quân Pháp vừa từ Vân Nam - Trung Quốc sang cướp phá làng bản của đồng
bào các dân tộc Lào anh em. Cuộc tiến quân khá khẩn trương, vất vả, nhưng nhờ sự
giúp đỡ của nhân dân Lào nên chỉ sau 2 ngày chúng tôi đã áp sát thị xã Sầm Nưa.
Tuy nhiên, tại đây, chúng tôi được trinh sát cho biết tàn quân Pháp đánh hơi thấy
quân Việt Minh sang, chúng đã rút chạy khỏi thị xã từ hơn một ngày trước. Ngay
lập tức, hai phân đội được lệnh khẩn trương truy kích địch, hai phân đội còn lại
chuẩn bị vào tiếp quản thị xã. Sáng sớm hôm sau, đội ngũ chỉnh tề, dẫn đầu là đại
đội trưởng Lê Tuấn Sơn, quân ta tiến vào thị xã Sầm Nưa. Bà con Việt kiều đã từng
sống ở đây nhiều đời cùng bà con các dân tộc Lào ở thị xã và các vùng xung
quanh ra chào đón khá đông, tay cầm cờ đỏ sao vàng, tay tung hoa, hô vang những
khẩu hiệu: “Hoan hô bộ đội Giải phóng Việt Nam!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Tình
hữu nghị chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào muôn năm!”.
Vào tiếp quản thị xã, trước
mắt chúng tôi là ngổn ngang quân trang, quân dụng và một số vũ khí của tàn quân
Pháp để lại không kịp mang theo rải rác khắp dọc đường tháo chạy. Chúng tôi đã
vận động bà con trong thị xã làm tổng vệ sinh đường phố, nhà cửa, mở lại trường
học, trạm xá; mở lại các cửa hàng, cửa hiệu. Nhân dân tự do buôn bán, tự do sản
xuất, thành lập các đội dân quân, tự vệ luyện tập quân sự và bảo vệ thôn bản.
Lại nói về việc tổ chức liên
lạc, chiếc điện đài mang theo đại đội khi vào tiếp quản thị xã Sầm Nưa được lắp
đặt chính quy ngay tại Sở chỉ huy có ăngten định hướng nên dù chỉ là chiếc máy
phát 20W Mesny cũng liên lạc với Hà Nội, Mộc Châu rất tốt. Đài còn làm nhiệm vụ
thu tin thông tấn xã Việt Nam, thu tin Đài tiếng nói Việt Nam chỉ bằng chiếc
máy thu Schnell đơn giản để cung cấp thông tin cho bộ đội và nhân dân. Mọi người
rất phấn khởi.
Đã 57 năm trôi qua, những kỷ
niệm về đoàn quân Tây tiến chiến đấu giúp bạn luôn khơi dậy trong tôi những kỷ niệm
rất đẹp về tinh thần đoàn kết, dũng cảm của bộ đội, về hình ảnh những người bạn
Lào chất phác, thật thà rất dễ gần gũi, về những bà mẹ Lào nhân hậu, về những
cô gái Lào xinh xắn luôn có nụ cười tươi tắn trên môi, về một thị xã Sầm Nưa nhỏ
bé nhưng rất thơ mộng, quyến rũ và đã được chúng tôi mệnh danh là "thị xã
hoa hồng" của thảo nguyên xanh kỳ thú; một thị xã mà trên khắp các ngả đường,
ngõ phố chỗ nào cũng rực đỏ hoa hồng tỏa hương thơm mát dịu, làm vợi đi những vất
vả, nhọc nhằn và như còn làm thắm thêm tình bạn chiến đấu Việt – Lào mãi mãi
xanh tươi, đời đời bền vững.
Hà Nội, ngày 14-1-2002
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn "Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1")
0 nhận xét:
Đăng nhận xét