16/10/24

Ở Chiến khu 3

Nguyễn Tấn

Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, Sở Vô tuyến điện Việt Nam giới thiệu tôi đảm nhận công tác ở Bộ Tổng Tham mưu Vệ quốc đoàn. Bộ Tổng Tham mưu đưa tôi vào làm việc ở đài vô tuyến điện Trung tâm của Bộ. Làm việc tại đây khoảng hơn một tháng, tôi nhận được lệnh của Bộ chuyển xuống công tác ở Bộ chỉ huy Chiến khu 3.

Hôm đó khoảng cuối tháng 10 năm 1945, tôi nhận được giấy giới thiệu do đồng chí tham mưu chủ nhiệm Lâm Kính ký, đến Chiến khu 3 ở Hải Phòng. Ở đây, tôi được nhận một bộ máy chỉ bằng một chiếc vali nhỏ, để trong hộp sơn đen còn mới tinh. Một căn phòng khoảng 16 m2 trên gác 2 là nơi đặt máy và cũng là chỗ ngủ của tôi. Một dây ăngten còn cuộn tròn để trên một góc buồng.

Thế là bộ phận vô tuyến điện chỉ có một mình tôi. Người vẫn luôn bám sát và tỏ ra thân mật với tôi nhất là đồng chí phụ trách cơ yếu. Anh còn trẻ tuổi, trạc như tôi hay chỉ hơn một vài tuổi. Tôi không nhớ tên, xin tạm gọi là anh Tuân. Anh Tuân bảo rằng bộ máy này là do quân ta tước được của Quốc dân Đảng ở Móng Cái.

Tôi nói với anh Tuân là khi tôi ở Đài của Bộ Tổng Tham mưu, rõ ràng là có liên lạc với đài Chiến khu 3, sao ở đây vẫn chưa có gì.

Anh Tuân cười thật vui nói: Ồ! Đó là đài ở trên tàu thủy, hiện tàu đang ở Móng Cái, mấy hôm nữa mới về Hải Phòng.

Thì ra vậy!

Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là đặt đài và bắt liên lạc với Bộ Tổng Tham mưu và đài tàu thủy đó.

Tôi ngỡ ngàng mở hộp máy ra. Nguy quá, tôi chẳng hiểu gì về bộ máy này cả. Không biết nó là kiểu máy gì, công suất bao nhiêu, có thể liên lạc được xa đến đâu?

Tôi lo quá, nhưng việc đến tay thì phải làm, không lẽ lại về Sở Vô tuyến điện cầu cứu. Tôi mày mò tìm hiểu máy suốt cả buổi sáng, chữ trên máy đều là tiếng Anh, may mắn trong lớp học vô tuyến điện hàng hải, tôi đã được học một số tiếng Anh. Cuối cùng tôi cũng hiểu ra máy phát sóng chạy bằng quartz, tuy trong chương trình học có học nguyên lý tạo sóng bằng thạch anh, nhưng thực tình tôi chưa được sử dụng quartz bao giờ và cũng chưa hề được trông thấy máy quartz. Nhưng sự hiểu biết chỉ mới qua lý thuyết ấy cũng giúp tôi biết rằng, những miếng bọc nhựa có 2 chân kim thò ra, có ghi một tần số nhất định chính là những miếng quartz, và chức năng kỳ diệu của nó là tạo ra tần số phát sóng. Còn máy thu thì là một loại máy siêu tha phách mà tôi đã được dùng nhưng kích thước rất nhỏ bé. Tôi biết là tôi có trong tay một máy thu-phát vô tuyến điện được sản xuất trong Chiến tranh thế giới thứ II.

Đó là bộ máy MKII do Ca-na-đa sản xuất và Mỹ đặt mua hàng loạt cung cấp cho các đơn vị chiến đấu. Sau này tôi còn có duyên dùng loại máy đó làm đài lưu động đặc biệt của Bộ Tổng Tham mưu, không những chỉ liên lạc với các đài miền Bắc, miền Trung và cả miền Nam. Trước đó, tôi chưa bao giờ dám nghĩ rằng một máy vô tuyến điện nhỏ bé như vậy lại liên lạc xa tới hàng nghìn cây số.

Tôi nhờ anh em giúp đỡ căng ăngten và tôi loay hoay điều chỉnh máy. Gần cuối chiều hôm đó, chiếc đèn nêông nhỏ bé của tôi đã lóe sáng trên trụ ăngten máy phát. Nỗi mừng vui của tôi thật không gì sánh kịp, nhưng tôi vẫn im lặng chẳng reo hò. Chẳng có ai cùng chia sẻ nỗi vui mừng với tôi cả.

Thế là đài của tôi đã sẵn sàng hoạt động. Anh Tuân thấy tôi làm xong công việc, cũng cho là bình thường. Anh hỏi: Đã liên lạc được với Bộ Tổng Tham mưu chưa? Anh không biết rằng tôi còn phải nhờ báo cho Bộ biết tần số phát sóng của mình và định giờ liên lạc...

Chiều tối hôm sau, tôi bắt được liên lạc với Bộ Tổng Tham mưu, ở đó cho QSA3 và khen tín hiệu rất trong.

Tôi nghĩ lần đầu tiên đã cho QSA3 thì chắc ít ra nó phải là QSA4.

Thế là đài vô tuyến điện chính thức của Chiến khu 3 đã hình thành, đáng tiếc tôi không ghi lại ngày tháng đúng, chỉ nhớ vào khoảng cuối tháng 10 năm 1945.

Nhưng tôi còn nhiều việc phải làm. Theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến khu: phải tiến tới các chi đội (sau gọi là trung đoàn) thuộc chiến khu có đài. Trước mắt cần bổ sung máy nổ và bộ nạp ắc quy để đài vẫn hoạt động được khi không có điện nguồn của thành phố, v.v. và v.v.

Công việc đầu tiên xong xuôi, đến ngày thứ ba tôi mới có thì giờ đi dạo phố Hải Phòng. Các phố xá Hải Phòng vẫn chẳng khác gì xưa nhưng có vẻ vắng hơn, ít ồn ào hơn. Đi qua nhà hát thành phố, tôi thấy nó như nhỏ quá, kiến trúc sơ sài quá.

Thấy dáng vẻ hơi buồn của tôi, anh Tuân nói: buổi tối sẽ vui hơn. Nếu cậu đi qua vũ trường ASIA thì cậu sẽ thấy nó còn rực rỡ, còn nhộn nhịp hơn cả Hà Nội...

Một buổi chiều, sau khi làm việc xong với đài tàu biển, tôi đang chuẩn bị xuống ăn cơm thì thấy dưới nhà có tiếng ào ào. Những tiếng nói lạ như tiếng Tầu vọng lên. Tôi đang định đóng cửa, chạy xuống thì mấy lính Tầu Tưởng đã sồng sộc chạy vào buồng tôi. Có mấy anh vệ binh ta cũng chạy theo. Chúng lơ láo nhìn ngó khắp buồng, rồi như bắt được của lạ, chúng bước vội đến bàn máy của tôi. Chúng xì xồ chỉ trỏ rồi sấn lại định gỡ máy ra. Tôi nhảy phắt ra ôm chặt lấy máy. Hai bên giằng co nhau, chúng cố đẩy tôi ra. Vừa sợ làm hỏng máy, và do tôi cũng yếu hơn, chúng đẩy được tôi ngã xuống. Nhưng tôi lại vùng dậy, cố gạt chúng ra, không cho tháo máy. Hai vệ binh cũng xô lại đứng chặn trước bàn máy. Hai bên hầm hè, tình huống hết sức căng thẳng.

Vừa may lúc đó anh Vũ Hiển, Chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng chiến khu đến. Anh Hiển nói: đây là một đơn vị Vệ quốc đoàn, nên chúng tôi có quyền dùng máy vô tuyến điện...

Chúng cho rằng: máy là máy của Trung Quốc, Việt Nam không thể có... Hai bên nói đi nói lại một hồi, cuối cùng chúng bảo sẽ về báo cáo cấp trên, trước mắt chúng yêu cầu tháo ăngten, và chỉ được dùng máy thu không được dùng máy phát.

Anh Hiển bảo: được, các anh cứ về báo cáo cấp trên.

Sau sự kiện này, Bộ chỉ huy họp bàn và quyết định di chuyển đài đi nơi khác. Ngay đêm đó, một xe du lịch đưa đài và chúng tôi sơ tán đến một ngôi chùa ở ngoại thành. Lúc đó đài đã được bổ sung thêm một anh báo vụ tên là Nam. Anh là một hiệu thính viên đã làm việc được ba bốn năm ở BCR nên rất thạo việc và nhanh nhẹn.

Ở trong chùa tuy buồn và tĩnh mịch nhưng thật dễ chịu. Chưa có điện nên chúng tôi vẫn dùng điện thành phố.

Nhưng ở đây cũng chẳng được yên. Thỉnh thoảng vẫn có nhóm lính Tầu lảng vảng trên đường gần chùa. Một ngày lễ mùng một, lại thấy có hai tên sĩ quan Tầu vào lễ chùa. Được hơn nửa tháng, chúng tôi nhận được lệnh di chuyển. Lần này đi xa hơn, đến một làng cách thị xã Hải Dương 5 cây số. Chúng tôi không hiểu sao lại phải đi xa thế, nhưng không dám hỏi vì sợ vi phạm nguyên tắc bảo mật.

Chúng tôi ở nơi sơ tán này không lâu, đến khi thực hiện Hiệp định Sơ bộ 6 tháng 3, quân Tưởng chuẩn bị rút đi thì chúng tôi về Hải Phòng.

Nhiệm vụ lo thêm đài vẫn canh cánh trong lòng tôi. Khu phải cho tôi về Hà Nội để tìm kiếm, xin hoặc mua máy. Tôi cũng chỉ biết hai nơi: Bộ Tổng Tham mưu và Sở Vô tuyến điện Việt Nam.

Mỗi khi tôi về Hà Nội, Bộ chỉ huy đều cho xe ô tô, ít khi phải đi tàu hỏa. Có lần đi ghép một hai người, nhưng có lần chỉ một mình. Tôi lại được phát một khẩu súng nhỏ nữa.

Hôm đó tôi về Hà Nội, một mình một xe. Sau nhiều lần đi lại, chuyến này may mắn được Sở Vô tuyến điện cấp cho một bộ máy tự lắp, với một ragônô quay tay do Bộ Tổng Tham mưu cấp. Chiếc ragônô hình như cũng là tước được của một đơn vị quân Quốc dân Đảng.

Người thì Sở Vô tuyến điện cho một anh hiệu thính viên đã khá thạo việc.

Chúng tôi phấn khởi đưa máy lên xe về Hải Phòng. Nhưng đến đầu cầu Long Biên, mấy tên lính Tầu Tưởng ách xe chúng tôi lại đòi khám, chúng dễ dàng phát hiện bộ máy để trên xe. Sau khi thấy máy, chúng bắt chúng tôi xuống xe. Thế là chúng hò hét và huýt còi ầm ĩ... Trong khi láo nháo, có hai thanh niên đi qua, tôi vội nắm lấy một người nhờ anh ta báo với cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ở phố Halais (nay là phố Nguyễn Du) là có 3 người và 1 xe ô tô của Chiến khu 3 bị bắt giữ, nhờ can thiệp.

Đúng là chúng bắt giữ chúng tôi. Hai tên sĩ quan lên xe và bắt anh lái xe lái về trụ sở của chúng (hiện nay là phố Lý Nam Đế) ở đó chúng chất vấn chúng tôi là súng và máy ở đâu ra?... Chúng tôi làm gì mà lại có thứ này?... Tôi trả lời là chúng tôi ở đơn vị Vệ quốc quân, đây là trang thiết bị của đơn vị (đại ý tôi nói như cách anh Vũ Hiển nói ở Hải Phòng)...

Cuối cùng người phiên dịch bảo rằng: Chúng tôi bị giữ lại ở đây để chờ chúng hỏi Bộ chỉ huy quân sự Ủy viên hội Việt Nam. Thế là chúng tôi bị chúng giam vào một căn buồng nhỏ trong ngôi nhà. Buổi chiều hôm đó, chúng cũng cho chúng tôi ăn cơm. Thức ăn có mấy miếng bí kho và mấy miếng thịt kho mùi lạ lùng thật khó nuốt. Tối hôm đó ba chúng tôi nằm co trên một chiếc giường không có màn, vừa nóng vừa muỗi, không tài nào ngủ được.

Mãi đến trưa hôm sau, chúng mới trả tự do cho chúng tôi cùng cả xe, súng và máy móc. Sau chúng tôi được biết là Bộ Tổng Tham mưu do có người báo cho biết đã cử người đến can thiệp, đàm phán với chúng suốt cả buổi sáng.

Mấy hôm sau, chúng tôi đưa máy đến đặt cho một đơn vị ở Hòn Gai. Chúng tôi đi trên tàu thủy nhỏ. Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Chiến khu Vũ Hiển và một đồng chí nữa cùng đi trên tàu với chúng tôi, cũng đến Hòn Gai công tác. Chiếc tàu nhỏ bập bềnh trên sóng biển. Khi tàu đến Quảng Yên, một canô của quân Tầu Tưởng đuổi sát chúng tôi và ra lệnh cho chúng tôi ghé vào bờ. Anh em thủy thủ còn lưỡng lự thì anh Hiển bảo cứ ghé vào bờ. Đến bờ chúng lên tàu khám. Thấy máy vô tuyến điện và nắn được súng lục trong người anh Vũ Hiển, một anh cán bộ và tôi... Chúng dẫn chúng tôi lên bờ, và lại bắt giữ chúng tôi. Ôi! Sao tôi lại nặng nợ với quân Tầu như thế này. Đây là lần thứ ba tôi gặp rắc rối với chúng. Mà cả Tham mưu trưởng Chiến khu cũng bị chúng tước súng và bắt giữ nữa. Nhưng anh Hiển chỉ nói là cán bộ thường. Không cho chúng biết là Tham mưu trưởng. Anh Hiển nhắn được người báo cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã. Một lúc sau thì Chủ tịch Ủy ban đến, tôi nhớ tên anh là Trương Tam Tỉnh, cũng là một người trông oai phong lắm. Sau gần một giờ thương lượng, chúng đã thả chúng tôi cùng toàn bộ vũ khí và máy móc.

Tàu chúng tôi lại rẽ sóng ra khơi, chả mấy lúc chúng tôi đến Hòn Gai.

Chúng tôi đổ bộ lên Hòn Gai, ở đây, vì có Tham mưu trưởng cùng đi, chúng tôi được Chi đội đón tiếp khá trọng thể và nồng hậu. Tôi đặt đài lên một lô cốt trong doanh trại, nó hoạt động tốt và nhanh chóng bắt liên lạc với Chiến khu. Thế là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.

Thời gian tôi ở Chiến khu 3 chỉ vừa đúng một năm, nhưng đã có mấy tháng được khu biệt phái sang làm sĩ quan liên lạc trong Phòng Liên kiểm Việt - Pháp Hải Phòng, rồi tạm chuyển sang phụ trách đài vô tuyến điện của Bộ Tư lệnh Tiếp phòng quân, theo đề nghị của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng nhờ Chiến khu giúp đỡ...

Chính khi tôi đang ở Bộ Tư lệnh Tiếp phòng quân đóng tại số 59 phố Quang Trung hiện nay ở Hà Nội, tôi nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham mưu điều về Bộ và sau đó được cử phụ trách đài lưu động đặc biệt LD1 chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Hồi ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 1”) 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét