Đại tá, Thạc sĩ Lê Minh Số
Đầu năm 1966, tốt nghiệp khóa đào tạo báo vụ, tôi và Phớt
được cấp trên điều ra đảo Hòn Mê thuộc Quân khu 4, một địa bàn nóng bỏng trong
cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay và tàu chiến Mỹ. Gần một năm, nơi đây đã
trở thành "túi đựng bom" của giặc Mỹ và bây giờ càng trở nên ác liệt
hơn. Những ngày nằm chờ tàu ra đảo, sáng và chiều trên bãi biển Duy Xuyên - Ba
Làng (Thanh Hóa) chúng tôi lại nhìn ra biển Đông, trông Hòn Mê xa thẳm nơi chân
trời, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mê hồn của nó. Khi bình minh, Hòn Mê như che đậy,
úp, mở đằng sau nó vô vàn hào quang rực rỡ. Phông trời tím đỏ rồi vàng ửng và
xanh thắm báo hiệu một cảnh trưa sắp tới. Về chiều, biển xanh, đảo càng xanh và
chuyển màu ngọc bích. Đảo như con biến sắc lộng lẫy và huyền diệu. Thật chả trách
mà từ ngàn xưa, người đời đã khéo đặt tên cho đảo là Hòn Mê và rồi ai ai cũng
quen gọi Đảo Mê. Đảo làm chúng tôi mê rồi. Ngày nào chúng tôi cũng ngắm đảo để tận
hưởng cái vẻ đẹp vĩnh hằng mà trời phú cho đảo và cũng để tận mắt thấy những trận
bom bằng cột khói đen ngòm và sau đó là tiếng nổ xa xăm.
Có ít người, nên chuyến ra đảo lần này chỉ chạy bằng thuyền.
Thuyền có ba thủy thủ do Duyệt quê Quỳnh Lưu (Nghệ An) làm thuyền trưởng. Cùng
ra đảo với chúng tôi còn có anh Nhưng, đảo phó, quê Tĩnh Gia (Thanh Hóa) đi họp
ở Quân khu về. Biết chúng tôi được điều về đảo, anh mừng lắm. Anh khoe luôn,
các cậu về đảo lần này là do tớ xin đấy. Vào Quân khu trước khi họp, tớ báo cáo
kế hoạch xin tăng quân số đợt này. Họp xong tớ ghé về qua nhà thăm cụ già và mấy
con trẻ, lần nào vào họp cũng vậy, lính mà, cứ chớp nhoáng là thế. Mấy hôm nay
nó tăng cường đánh đảo dữ quá, sốt cả ruột. Rồi anh kể rất nhiều chuyện ở đảo,
chúng tôi càng háo hức về đảo. Gần trưa, anh mua ba con mực của một thuyền câu
trên đường về. Anh chiêu đãi chúng tôi, mực tươi luộc ngon thật, chúng tôi chỉ
ăn hết ba bộ râu mực mà no.
Đảo hiện rõ dần trước mặt chúng tôi, thuyền phải quay mũi
đổi hướng đi, rồi trà trộn vào đoàn thuyền của dân đang đánh cá trên biển. Cứ
như thế đến ba, bốn lần để đánh lừa máy bay địch. Thuyền lênh đênh, sóng đánh lắc
lư, tròng trành. Chúng tôi đã thấm mệt, ngấm sóng và say dần, nằm lăn cả ra
khoang chở gạo. Chập choạng tối, thuyền được lệnh quay đầu tiến vào đảo. Chúng
tôi ai cũng bồn chồn như người đi xa trở về nhà.
Bữa cơm đầu tiên trên đảo cho thấy cực kỳ thiếu rau. Cơm
nấu xong rồi mà cả đảo vẫn chưa ăn, kiên trì chờ thuyền ra để kiếm bữa canh
rau. Một nồi quân dụng nước, lơ thơ độ chục tàu rau cải thái nhỏ biến, mà anh
nào cũng hau háu muôi, thìa, đũa hướng vào... Tối hôm ấy tôi được vinh dự ngủ lại
nhà hầm chỉ huy đảo. Cuộc sống nơi đây còn nhiều cái thiếu lắm. Thiếu nước ngọt
vào mùa khô, thiếu rau xanh... và thiếu dân. Trước đây khu đồi Hải Đăng vui lắm,
có ngọn Hải Đăng, có trạm phát điện. Dân ở đây chăn nuôi bò, nuôi dê, đánh bẫy
chim gáy, hái thuốc Nam, thuốc Bắc, trồng chuối, đánh cá, câu mực... thuyền bè
ra vào bến Bãi Cát nhộn nhịp. Bây giờ đồi Hải Đăng là trận địa pháo của ta, ngọn
Hải Đăng đã tắt lâu rồi, trạm phát điện chỉ còn một đống gạch vụn... Đảo trưởng
căn dặn tôi, cậu sẽ về đài 15W, trên ấy chưa có đảng viên, cậu về chúng tôi
càng yên tâm. Song hết sức chú ý, trên đó địch đánh như cơm bữa.
Sáng hôm sau tại Sở chỉ huy, Chính trị viên đảo giao nhiệm
vụ cho tôi, Trung đội trưởng Thư và Đài trưởng Ưng lên tận nơi đón tôi. Leo một
con dốc, đường ngoằn ngoèo, đá lởm chởm, hai bên có hố cá nhân, cái lộ thiên,
cái hàm ếch. Leo tiếp là lên Đài quan sát, rẽ trái là về khu điện đài. Nơi đảo
xa này, vô tuyến điện sóng ngắn là phương tiện duy nhất để liên lạc với Quân
khu, với Bộ nên được bố trí ở khu hầm khá kiên cố. Điện đài đặt trong căn hầm
lưng chừng đồi, mấy cành khô nhô lên trên sườn dốc toàn là đá. Đá nhỏ, đá to ngổn
ngang và cả những mảnh bom còn mùi khét, tôi chợt nhận ra và hỏi Đài trưởng
Ưng:
- Trận bom sáng sớm nó lại đánh vào Đài hở anh?
- Đúng rồi, tôi đang rửa mặt thì nghe bom rít, kịp nhảy
vào cửa hầm là bom nổ. Ăngten đứt, cột ăngten gãy. Anh em trong Đài phải khắc
phục sơ bộ để kịp liên lạc, chính Ngọ, mới củng cố lại.
- Sao anh không cho thay ăngten, để nhiều mối nối thế có
liên lạc được không?
- Ăngten này thay chưa được tuần lễ. Ở đây tốn ăngten lắm,
cuối năm rồi Quân khu bổ sung cho 5 bộ, thế mà hôm nay còn duy nhất bộ này. Nó
còn khá đấy, mới có chục mối nối, có cái hơn hai chục lần nối. Cũng có cái sau
trận bom chỉ còn vài mét. Tôi đã cho triển khai ăngten rải, ăngten chôn để liên
lạc nhưng cự ly xa, liên lạc khó khăn lắm. Đài mình rất vất vả với công việc khắc
phục ăngten, nhất là những trận địch đánh đêm. Trận đêm tháng mười năm ngoái
đang phiên liên lạc điện TGK và TK hơn năm chục, trời tối đen như bịt mắt, ánh
sáng không được dùng, ăngten đứt, rối tung không biết đâu mà lần. Đang khắc phục
thì địch lại đánh, anh em chạy vào hầm không kịp ẩn nấp vào vách đá. Nguyễn Ái
Chi bị thương rất nặng, sau nhiễm uốn ván, may là tàu Hải quân ra kịp chuyển về
Quân khu điều trị. Bây giờ chàng trai Hà Nội ấy là "chuyên gia"
ăngten của đài. Trèo cây giỏi, dựng cột nhanh, triển khai ăngten chuẩn lắm. Những
lúc nghỉ, Chi cùng anh em nhặt các đoạn ăngten củng cố thành một bộ đủ kích thước,
làm dây co, dây níu rất cẩn thận, chặt cây rừng nối lại thành cột ăngten có đủ
độ cao, khi có sự cố ăngten là triển khai thay thế được ngay. Sau đó thu ăngten
hỏng về củng cố. Thật là kế nhỏ mà hiệu quả cao. Nghe đài trưởng Ứng kể về tập
thể đài, tôi càng mến phục anh em hằng ngày lặng lẽ lập những chiến công trên
cao điểm và là trọng điểm của đảo. Nơi mà cái gì cũng thiếu thốn, thiếu cả những
tờ giấy viết thư... Tôi mời anh em hút điếu thuốc lá "Sầm Sơn" quê
nhà. Chi hỏi tôi về chuyện riêng tư. Tôi nhận ra giọng "Nghệ" mà sao
gọi là chàng trai Hà Nội. Về sau tôi mới biết Chi là con trai Giáo sư Nguyễn Đổng
Chi, nhà nghiên cứu văn học, sử học nổi tiếng của Việt Nam. Gia đình Chi đang
sinh sống tại Thủ đô. Tôi theo Đài trưởng Ưng vào hầm đài. Dưới ánh đèn dầu lờ
mờ, anh em đang ca làm việc. Tiếng ragônô quay vè vè, tiếng maníp gõ, tiếng
rơle ăn điện phầm phập, đèn neon chớp lửa cao tần theo nhịp máy đang phát đi bản
điện, báo cáo trận đánh vừa rồi. Và từ đó tôi hòa vào cuộc sống của đài 15W
trên đảo. Anh em thay phiên nhau, sáng tinh mơ xuống núi gánh nước, xuống bếp đảo
bộ lấy cơm, xuống biển bắt cá, cua đá, ghẹ, con hàu về cải thiện, chặt lá ngụy
trang cửa hầm, vào ca máy và khắc phục sự cố ăngten... Nhưng dù làm việc gì, ở
đâu chúng tôi vẫn phải canh chừng những trận bom và pháo kích của giặc Mỹ.
Dễ có đến nửa tháng ra đảo mà tôi chưa được quan sát đảo.
Hôm nay xin phép đài trưởng, tôi theo anh em trung đội trinh sát lên đài quan
trắc. Đây là nơi để quan sát phát hiện máy bay, tàu chiến Mỹ, đánh kẻng báo động
và gọi bộ đàm báo cáo chỉ huy rồi ghi nhật ký chiến đấu của đảo. Mỗi khi tiếng
kẻng báo động vang lên, chỉ trong giây lát là máy bay Mỹ ập tới. Tốp thì nhào
vào đánh phá đảo. Tốp bay qua đảo và oanh tạc đất liền, có tốp từ đất liền trở về
căn cứ, bay qua đảo và trút xuống đây những quả bom, những thùng rốc-két còn dư
thừa trước khi về hạ cánh xuống căn cứ. Có tốp tưởng bay qua, nhưng chúng lén vòng
lại đánh đảo. Có lần tiếng bom át cả tiếng kẻng vì khi phát hiện được máy bay
thì chúng đã cắt bom. Để tránh tầm quan sát của chiến sĩ ta phát hiện, bọn giặc
lái Mỹ thường bay rất thấp gần sát mặt biển, tới đảo chúng nâng độ cao cắt bom
xuống đảo rồi bay vọt lên cao vòng ra biển quay về căn cứ. Địch quả là xảo quyệt.
Chúng hoạt động theo quy luật: ngày nào cũng vậy, vào sáng sớm và từ hướng đông
- hướng mặt trời, chúng bay rất thấp vào oanh kích đảo. Mục tiêu chính là khu
điện đài. Nắm được quy luật hoạt động của địch, tôi suy nghĩ và bàn bạc với anh
em trong đài, với trung đội tìm cách hiến kế đánh chúng. Chúng tôi cùng một
dòng suy nghĩ: Nếu đánh thắng địch ở hướng này là bảo vệ được khu điện đài, anh
em đỡ vất vả về công việc khắc phục ăngten. Biết đâu đấy chúng ta lại có thành
tích tự chiến đấu bảo vệ đài, bảo vệ thông tin. Sau nhiều lần báo cáo và cùng
trung đội trưởng thảo luận, chúng tôi mạnh dạn đề nghị phương án chiến đấu lên
chỉ huy đảo. May mắn thay là được chỉ huy đảo chấp thuận và giao nhiệm vụ cho
Trung đội Thông tin thực hiện. Cả trung đội phấn khởi với nhiệm vụ và bắt tay
vào triển khai, song cũng không ít ý kiến xì xào khó tin là khả thi. Trận địa gồm
3 hầm đặt súng RPĐ thành thế chân kiềng. Cả trung đội được tập huấn lại cách bắn
máy bay bằng súng bộ binh và thay phiên nhau trực chiến chờ địch vào những giờ
cao điểm. Ác nghiệt thay, một tuần, hai tuần rồi gần một tháng trôi qua, không
một lần máy bay vào hướng trận địa của chúng tôi. Tôi nghĩ và nhiều anh em cũng
suy nghĩ: Hay là bị lộ, ráng mấy hôm nữa sẽ báo cáo với cấp trên thôi tổ chức
trực chiến, vì anh em quá nhiều công việc sự vụ khác. Hơn nữa anh em ý kiến ỳ
xèo quá nhiều, nghe nhức cả đầu. Trung đội họp chấn chỉnh, tiểu đội họp chấn chỉnh.
Tôi cũng cảm thấy khổ tâm cho anh em.
Hôm ấy, vào một sáng tháng 5 đẹp trời, tổ tôi bàn giao
ca xong, vừa trở về nhà hầm thì nghe tiếng súng nổ giòn phía trận địa. Tiếp
theo là tiếng bom nổ rung cả đất trời. Có tiếng reo. A ha! Cháy rồi! Trận địa
Thông tin lập công rồi. Tôi không tin vào tai và mắt mình, nhưng đó là sự thật.
Chiếc F105 với một vòng lửa đỏ rực và một vệt khói đen ngòm, to và dài đang
nhào ra biển Đông, đúng là trận địa Thông tin lập công rồi. Các trận địa pháo lớn
không hề nổ súng. Từ đài quan sát báo về một máy bay F105 trúng đạn từ trận địa
trung đội Thông tin. Mọi người mừng rỡ, nhưng chưa được công nhận, còn phải chờ
bản tin của Đài tiếng nói Việt Nam công bố. Bản tin trưa qua đi, rồi bản tin
chiều cũng vậy, cả đảo như nín lặng, đón nghe và người nóng lòng nhất là tôi. Một
ngày không và ngày hôm sau vẫn không tin tức gì. Lần này không chỉ anh em trong
trung đội mà cả đảo bàn tán. Đâu có thể "bở ăn" như vậy, cái tay này
chỉ bày trò cho mệt anh em. Mà mấy ông sao cũng dễ tin một tay chân ướt, chân
ráo mới về đảo là vậy. Tôi buồn bực, có phần xấu hổ và ân hận, lên giường đi ngủ
sớm hơn mọi ngày, nhưng trằn trọc, vật vã không sao ngủ được. Hai ngày cực độ
buồn chán, ngấm mệt, bã cả người, thiếp đi. Giật mình, tôi nghe trung đội trưởng
Thư oang oang:
- Bản tin cuối cùng trong ngày, Đài tiếng nói Việt Nam
vừa tin thêm ngày hôm qua quân và dân đảo Hòn Mê, Thanh Hóa bắn cháy một máy
bay F105 của giặc Mỹ!
Thế là cả trung đội reo vang mừng chiến thắng. Chính trị
viên đảo gọi điện thông báo và chúc mừng. Cả đảo mừng reo hơn cả sáng hôm qua,
chiến thắng này quả là quá đặc biệt, được hai lần đảo đón mừng. Tôi sung sướng trào
cả nước mắt, trung đội trưởng cũng trào cả nước mắt, anh ôm chặt lấy tôi, anh
nói: Hôm nay tớ mới thở phào nhẹ nhõm. Đã hơn tuần lễ qua, tớ mất ăn, mất ngủ
vì chỉ huy đảo ép chuyển phương án chiến đấu. Tớ phải thuyết trình là phương án
đó còn là phương án chiến đấu phòng thủ trên hướng quan trọng khi địch liều
lĩnh đổ bộ lên đảo. Đến hôm nay, chứng tỏ phương án của ta quả là tối ưu khả
thi.
Hôm sau tội và Tuyển được cử lên đảo bộ bắt lợn về ăn mừng.
Chúng tôi làm cỗ mời chỉ huy đảo, mời các trận địa bạn. Bữa tiệc vui quá, tôi
được chúc mừng nhiều nhất. Cỗ không có bia, rượu nhưng ai cũng say, say với chiến
thắng, tôi vô cùng vinh hạnh. Nhưng cái vinh hạnh lớn hơn là được đảo phát động
học tập tinh thần dám nghĩ, dám làm. Biết cách tìm địch mà đánh, biết đánh và
biết thắng vẻ vang, trong phong trào thi đua "hiến kế đánh giặc" của toàn
đảo.
Cuối năm ấy với thành tích xuất sắc, đài 15W được Quân
khu tặng Bằng khen. Với công sức đóng góp, tôi được bầu là Chiến sĩ thi đua và
vinh dự đại diện cho anh em trên đảo đi dự Hội nghị mừng công toàn Quân khu.
Sau đó không lâu tôi được cử đi đào tạo cán bộ tại Trường Quân chính Quân khu.
Gần 40 năm xa đảo, tôi mong muốn mà chưa một lần về thăm lại đảo, thăm lại đài
15W thân yêu, thăm lại Hòn Bằng, Hòn Vát, đồi Quan sát, những cái tên gắn với
tôi bằng cả máu thịt. Nhưng lòng tôi luôn hướng về đất đảo thân yêu, luôn gửi
trọn niềm tin đến đài 15W với chiến công đầu trong đời lính, luôn thôi thúc tôi
vươn lên trong mọi lĩnh vực, trong từng bước đường công tác. Nó khích lệ tôi và
nhắc nhủ tôi giữ vững và phát huy nó như dòng máu trong tim mình để "Xứng
danh với truyền thống Bộ đội Thông tin anh hùng".
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét