Ngô Gia Linh
Thế là một cái Tết nữa lại đến với chúng tôi, những người
lính của Đại đội 15 Trung đoàn 134 thông tin đang làm nhiệm vụ tại nước bạn
Lào. Đó là cái Tết Quý Sửu 1973.
Tổ tôi đóng quân tại nơi có khí hậu thuộc vào loại tốt
nhất tỉnh Xiêng Khoảng. Mùa đông không đến nỗi rét lắm, mùa mưa thì mát mẻ. Nơi
đây có những cánh rừng thông rộng mênh mông ngày đêm reo vi vu trong gió. Thông
nhiều đến nỗi tỉnh Xiêng Khoảng có hẳn một huyện gọi là huyện Thông (Mường Pẹc).
Mỗi khi xuân về, thông nhú chồi non trông như những ngọn nến xinh xinh xanh mơn
mởn. Gần nơi chúng tôi ở có một bản người Lào Thơng. Bản lưa thưa chỉ có độ
năm, sáu nóc nhà nằm rải rác, ẩn hiện dưới những lùm cây mận, cây đào đang ra
hoa vừa trắng vừa hồng trông thật thơ mộng. Mùa xuân ở đây, nếu không có tiếng
máy bay trinh sát OV10 suốt ngày vè vè thật khó chịu, tiếng máy bay phản lực Mỹ
gầm rú, tiếng bom nổ ì ầm đâu đó thì phong cảnh thật hữu tình, thanh bình giống
như bản tính hiền lành của người dân Lào vậy. Chả thế mà mùa xuân tiếng Lào gọi
là nham đoọc mạy ban có nghĩa là mùa cây cối nở hoa.
Chúng tôi đến đóng quân ở đây đã nhanh chóng đặt quan
hệ tình cảm tha hản xư xản Việt Nam (Bộ đội Thông tin Việt Nam) với người
dân địa phương. Việc quan trọng lúc bấy giờ là đem lương khô, thịt hộp và muối
ra đổi lấy rau tươi cải thiện bữa ăn, tăng lượng vitamin C cho anh em và tranh
thủ học tiếng Lào. Tôi được cái là có năng khiếu ngoại ngữ nên học tiếng Lào
khá nhanh. Mỗi khi thủ trưởng trung đoàn và đại đội đến thăm tổ là tôi đưa ra bản
chơi và tạm phiên dịch được. Trong bản có một ông tài sẻng (tương đương với chức
chủ tịch xã ở ta), ông cho biết trước đây dân cư cũng khá đông đúc, sống thành
một xã. Nhưng trong chiến dịch "Cù Kiệt" 1970, giặc Mỹ và bọn tay sai
Vàng Pao đã dùng máy bay lên thẳng xúc dân đưa về các trại tị nạn trong vùng do
chúng kiểm soát. Chỉ có một số ít trốn thoát được, bộ đội Việt Nam dùng ô tô đưa
về Con Cuông, Nghệ An. Sau khi Quân đội giải phóng Pa-thét Lào và bộ đội tình
nguyện Việt Nam chiến đấu giành lại vùng giải phóng Xiêng Khoảng Cánh Đồng Chum,
họ mới trở về quê hương dựng lại làng bản, phục hồi sản xuất. Mặc dù mới trở về
chưa đầy hai năm, cuộc sống còn vô cùng khó khăn, vất vả, nhưng những người dân
Lào ở đây vẫn hết lòng giúp đỡ chúng tôi từ hạt giống rau, con gà, con chó cho
đến việc rèn cho chúng tôi những cây dao quắm để đi rừng.
Sau gần hai năm, chúng tôi đã có "của ăn, của để".
Chúng tôi xin được một thửa ruộng để cấy lúa nếp. Vào vụ cày cấy, chúng tôi đi
cấy giúp dân bản để một ông phò thầu (bố già) mang trâu đến cày bừa hộ
chúng tôi, mạ thì xin mỗi nhà một ít. Đến mùa, chúng tôi ra bản mượn liềm về gặt.
Không cần biết năng suất thế nào nhưng nhìn bốn thùng phuy chứa đầy thóc là
chúng tôi sung sướng lắm rồi. Gà thì nhiều không cần biết có bao nhiêu con.
Chúng tôi nuôi đến ba con chó nên không sợ cáo đến rình mò bắt gà. Trong chuồng
có hai con lợn béo núc na núc ních. Bắt chước người Lào, chúng tôi lấy một sợi
dây đo vòng quanh ngực của con lợn, sau đó chập đôi lại và dùng nắm tay để đo
đoạn dây đó. Mỗi nắm tay tương đương với mười cân. Một con được "năm nắm
tay" và một con được "bốn nắm tay". Vườn rau của chúng tôi thôi
thì đủ các loại: cải xanh, cải trắng, cải củ, su hào, cải bắp ăn không xuể. Ông
Tam, trung đội trưởng, chỉ thị phải muối dưa để viện trợ cho ba tổ mới thành lập
thuộc Trung đội 7 phía trong Cánh Đồng Chum, mỗi tổ hai thùng lương khô, vị chi
là sáu thùng. Muốn để nhanh chua, chúng tôi lại học người Lào cho thêm ít cơm
nguội vào (may mà không bị khú). Đầu năm 1973, ô tô của trung đoàn chở thêm cáp
và lương thực, thực phẩm sang cho Đại đội 15 dự trữ trong mùa mưa. Xe đổ hàng
cho tổ tôi ở một bãi trống cạnh đường 7 cách nhà đến năm cây số. Hàng nhiều đến
nỗi đại đội phải điều một tổ xung kích đến giúp chúng tôi vận chuyển về tổ.
Chúng tôi động viên nhau cố gắng mang hết hàng về thật nhanh, để còn chuẩn bị
đón Tết.
Công việc chuyên môn của chúng tôi là phải thường xuyên
nâng cao chất lượng thông tin bằng cách thay những cuộn dây cáp đã có từ hai mối
nối trở lên, hàn lại những mối nối không đạt chất lượng, lau đầu cáp đã chỉn chu.
Khi công việc đã xong, chúng tôi bắt tay vào lo cho cái Tết. Gọi là lo nhưng thực
ra mọi cơ sở vật chất đã khá đầy đủ. Thóc nếp có, chỉ việc mang ra bản giã nhờ.
Tôi và Trọng (quê Thái Bình) đổ đầy thóc vào hai cái ba lô gùi ra bản. Người
Lào không có cối xay như ở ta, chỉ có hai cái cối dậm chân. Thóc cho vào cối,
giã một lượt đầu cho bong vỏ trấu xong mang ra sảy, sau đó lại cho vào cối giã
lần hai cho đến lúc nào trắng thì thôi. Đỗ xanh cũng có. Đỗ là của binh trạm
cung cấp cho đơn vị ngâm lấy giá ăn hàng ngày. Lợn, gà đã sẵn trong chuồng. Lá
dong mọc đầy khe suối, chỉ đi một lúc là cắt về được hàng ôm. Chỉ còn thiếu rượu.
Ngày Tết mà không có tí rượu thì mất vui. Tôi ra bản xin men và hỏi cách làm
cơm rượu. Gạo nếp đồ lên thành cơm, để nguội, bóp vụn men rắc vào, trộn đều rồi
cho vào thùng lương khô, cuốn bao tải xung quanh ủ cho đến khi cơm rượu chảy nước,
dậy mùi thơm là được.
Sáng hôm ấy, tôi gánh hai thùng lương khô đựng đầy cơm
rượu và một xâu bị đông đến nhà ông tài sẻng mượn nồi niêu, đồ nghề nấu
nhờ. Khi nồi rượu đã sôi, một dòng nước trong vắt theo đường ống chảy long tong
vào chiếc bi đông mà tôi đã hứng sẵn ngay đầu ống. Một hương vị cay cay, tê tê,
ngọt ngọt của rượu làm tôi sung sướng. Một lúc sau, nếm thử, tôi kêu lên:
"Chứt leo! (nhạt rồi)" và dập lửa không lấy thêm nữa. Trước
khi về, tôi không quên đi đến từng nhà dân bản để mời sáng mồng một Tết vào kin
khẩu xa ma khi (ăn cơm đoàn kết) với bộ đội Việt Nam. Người Lào đón Tết năm
mới không cùng với ta mà diễn ra vào khoảng trung tuần tháng Tư dương lịch tức
là vào thời điểm bắt đầu mùa mưa. Bun pi may (Tết năm mới) còn gọi là Bun
hốt nậm (Tết té nước). Ngày hôm đó, người
dân Lào mang những bình nước cúng tượng Phật, sau đó té, giội lên người nhau và
cả khách qua đường. Họ cho rằng phải thật ướt mới gặp nhiều may mắn.
Còn một việc khá quan trọng là phải lo trang hoàng nhà
cửa và làm báo tường. Việc trang trí nhà cửa cũng tằn tiện vì vẫn trong hoàn cảnh
chiến trường. Chỉ cần ra bản xin một cành đào về cắm vào thùng lương khô, thế
là đã ra không khí Tết lắm rồi. Tổ tôi có năm anh em, tôi khoán cho mỗi người
phải viết hai bài báo tường. Còn nhớ ngày mùng 1 Tết năm ấy trùng với ngày kỷ
niệm thành lập Đảng mùng 3 tháng 2, tôi viết một bài "xã luận" với nội
dung là "Mừng Đảng, mừng Xuân" và một bài ca dao theo kiểu thơ Bút
Tre:
Ai về
mười tám tổ tôi
Có
dòng suối chảy ven đồi thông xanh
Chim rừng
ríu rít vây quanh
Ngàn
hoa khoe sắc chào anh đây dường (đường dây).
Sáng 30 Tết, chúng tôi tập trung làm thịt một chú lợn và
gói bánh chưng. Vì toàn con trai nên việc gói bánh đối với chúng tôi quả là điều
vất vả. Cậu Minh (quê ở Phú Thọ) có sáng kiến đóng một cái khuôn bằng gỗ, sau
đó xếp lá dong vào, tra gạo, đỗ vuông vắn, góc nào ra góc đấy.
Bóng chiều của dãy núi Phu He cao sừng sững ngay phía
trước nhà đổ dài trên những tràn ruộng còn trơ gốc rạ của bản Nậm Cọ. Trời se lạnh.
Gió xuân lùa vào cánh rừng sau nhà nghe xào xạc xen lẫn tiếng suối chảy róc
rách, rì rào, chúng tôi tranh thủ bắc bếp luộc bánh chưng để khỏi phải thức
đêm. Bữa cơm tất niên chiều hôm ấy có món đặc sản tiết canh lòng lợn và một bi
đông rượu có mùi "thơm" đặc biệt vì tôi nấu quá lửa. Tôi nói vui chắc
là năm nay có điềm may (quả nhiên thì sau đó không đầy một tháng, ngày 23 tháng
2, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hòa bình trên toàn lãnh thổ Lào được ký kết.
Nhưng phải đến tháng 5 năm 1974, Đại đội 15 mới được lệnh rút về nước để nhận
nhiệm vụ mới). Mọi người nhắc nhau không nên quá chén đề phòng đường dây thông
tin bị mất liên lạc, phải lên đường khắc phục.
Tối hôm ấy, ngồi quanh nồi bánh chưng, chúng tôi nói chuyện
vui vẻ để cố xua đi nỗi nhớ nhà. Tôi nhập ngũ từ năm 1968, ăn Tết xa nhà đã
quen, nhưng có đồng chí mới đi đầu quân năm 1972. Loanh quanh thế nào lại chỉ
có về chuyện gia đình, chuyện nhà, chuyện cửa. Tôi nói, nếu còn lành lặn trở về,
thế nào cũng cố gắng đến thăm gia đình anh em trong tiểu đội dù chỉ lấy một lần.
Thế mà phải đến tận hai mươi năm, sau khi Nhà nước xóa bỏ bao cấp, đời sống khấm
khá, nhất là từ khi hội bạn chiến đấu Trung đoàn 134 được thành lập, chúng tôi
mới có dịp gặp lại nhau. Trọng (Thái Bình) nay là Chủ tịch Hội Nông dân xã,
Minh (Phú Thọ) làm công việc hộ tịch ở địa phương, Lai (Hà Tây) làm việc tại
Công ty xây dựng, có nhà ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Tòng (Nam Định), vốn đã có
nghề loa đài từ trước khi vào bộ đội, mở một cửa hàng sửa chữa ti vi tại nhà.
Riêng Tú, cậu em út của tiểu đội, quê ở Phủ Lý thì phải ba mươi năm tôi mới gặp
lại, vì sau khi ra quân, Tú vào công tác tại đoàn thăm dò dầu khí đồng bằng
sông Cửu Long rồi lập gia đình và định cư ở Vũng Tàu...
Sáng mùng 1 Tết năm ấy ở Lào, thủ trưởng đại đội gọi điện
chúc Tết. Các tổ bảo vệ dây cũng gọi điện chúc Tết lẫn nhau. Chúng tôi làm thịt
thêm hai con gà chuẩn bị đón khách.
Khoảng 10 giờ khách đến. Ông tài sẻng cùng đi với
hai bà vợ, bà mia nhầy (vợ lớn) và bà mia nọi (vợ bé). Vì bà
mia nhầy chỉ sinh được hai cô con gái nên ông tài sẻng lấy thêm bà
mia nọi và đẻ được một cậu con trai. Kế tiếp là phò Thao La, người
đã cày ruộng cho chúng tôi, với hai cậu con trai. Rồi đến Ái Vân Khăm, người đã
rèn cho chúng tôi con dao quắm, đi cùng một cô gái tên là Đuông Xỉ. Tôi mời mọi
người ngồi vào bàn và bắt đầu đọc bài diễn văn bằng tiếng Lào (vì sợ bạn đọc rối
mắt nên tôi không chép ra đây) đại khái là cảm ơn sự giúp đỡ của dân bản, chúc
mọi người du di mi heng (bình yên mạnh khỏe) và chúc cho tình hữu nghị
Việt - Lào đời đời "như nước Hồng Hà - Cửu Long". Không có cốc chén,
rượu được rót ra bát. Mọi người cười khen lẩu xẹp (rượu ngon). Nhìn hai
bà vợ ông tài sẻng lóng ngóng cầm đũa ăn bánh chưng, chúng tôi bật cười.
Người Lào xưa nay vẫn có thói quen ăn bốc. Họ cho rằng hạt lúa là hạt sữa do Mẹ
Đất ban tặng nên phải quý trọng, nâng niu. Ông tài sẻng rất thích ăn món
dồi lợn. Một lần nhà ông mổ lợn, ông nhờ chúng tôi ra làm hộ món dồi. Tôi bảo: "Anh
cứ làm thịt con lợn xong, để riêng chậu tiết chúng em sẽ ra làm dồi". Hôm
sau tôi và Minh ra bản thì đã thấy cô con gái ông tài sẻng cho một bát ớt
bột vào chậu tiết rồi. Tôi bực mình bảo làm thế này thì không ngon nhưng vẫn phải
làm cho xong món dồi. Bữa đó, tôi ăn có một miếng mà đã xuýt xoa chảy cả nước mắt.
Đến nay đã hơn ba mươi năm, chúng tôi vẫn ao ước có ngày
được trở lại thăm chiến trường xưa trên đất bạn Lào, nơi "có những bản mường
đẹp như hoa Chăm Pa", thăm lại các phò me, phì noọng và nhân dân tỉnh
Xiêng Khoảng, những người đã góp phần không nhỏ giúp đỡ Đại đội 15 chúng tôi
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ có 5 năm từ khi thành lập đã được Đảng và Nhà
nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)
0 comments:
Đăng nhận xét