27.1.25

Chúng tôi ăn tết ở Lào

Ngô Gia Linh

Thế là một cái Tết nữa lại đến với chúng tôi, những người lính của Đại đội 15 Trung đoàn 134 thông tin đang làm nhiệm vụ tại nước bạn Lào. Đó là cái Tết Quý Sửu 1973.

Tổ tôi đóng quân tại nơi có khí hậu thuộc vào loại tốt nhất tỉnh Xiêng Khoảng. Mùa đông không đến nỗi rét lắm, mùa mưa thì mát mẻ. Nơi đây có những cánh rừng thông rộng mênh mông ngày đêm reo vi vu trong gió. Thông nhiều đến nỗi tỉnh Xiêng Khoảng có hẳn một huyện gọi là huyện Thông (Mường Pẹc). Mỗi khi xuân về, thông nhú chồi non trông như những ngọn nến xinh xinh xanh mơn mởn. Gần nơi chúng tôi ở có một bản người Lào Thơng. Bản lưa thưa chỉ có độ năm, sáu nóc nhà nằm rải rác, ẩn hiện dưới những lùm cây mận, cây đào đang ra hoa vừa trắng vừa hồng trông thật thơ mộng. Mùa xuân ở đây, nếu không có tiếng máy bay trinh sát OV10 suốt ngày vè vè thật khó chịu, tiếng máy bay phản lực Mỹ gầm rú, tiếng bom nổ ì ầm đâu đó thì phong cảnh thật hữu tình, thanh bình giống như bản tính hiền lành của người dân Lào vậy. Chả thế mà mùa xuân tiếng Lào gọi là nham đoọc mạy ban có nghĩa là mùa cây cối nở hoa.

Chúng tôi đến đóng quân ở đây đã nhanh chóng đặt quan hệ tình cảm tha hản xư xản Việt Nam (Bộ đội Thông tin Việt Nam) với người dân địa phương. Việc quan trọng lúc bấy giờ là đem lương khô, thịt hộp và muối ra đổi lấy rau tươi cải thiện bữa ăn, tăng lượng vitamin C cho anh em và tranh thủ học tiếng Lào. Tôi được cái là có năng khiếu ngoại ngữ nên học tiếng Lào khá nhanh. Mỗi khi thủ trưởng trung đoàn và đại đội đến thăm tổ là tôi đưa ra bản chơi và tạm phiên dịch được. Trong bản có một ông tài sẻng (tương đương với chức chủ tịch xã ở ta), ông cho biết trước đây dân cư cũng khá đông đúc, sống thành một xã. Nhưng trong chiến dịch "Cù Kiệt" 1970, giặc Mỹ và bọn tay sai Vàng Pao đã dùng máy bay lên thẳng xúc dân đưa về các trại tị nạn trong vùng do chúng kiểm soát. Chỉ có một số ít trốn thoát được, bộ đội Việt Nam dùng ô tô đưa về Con Cuông, Nghệ An. Sau khi Quân đội giải phóng Pa-thét Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam chiến đấu giành lại vùng giải phóng Xiêng Khoảng Cánh Đồng Chum, họ mới trở về quê hương dựng lại làng bản, phục hồi sản xuất. Mặc dù mới trở về chưa đầy hai năm, cuộc sống còn vô cùng khó khăn, vất vả, nhưng những người dân Lào ở đây vẫn hết lòng giúp đỡ chúng tôi từ hạt giống rau, con gà, con chó cho đến việc rèn cho chúng tôi những cây dao quắm để đi rừng.

Sau gần hai năm, chúng tôi đã có "của ăn, của để". Chúng tôi xin được một thửa ruộng để cấy lúa nếp. Vào vụ cày cấy, chúng tôi đi cấy giúp dân bản để một ông phò thầu (bố già) mang trâu đến cày bừa hộ chúng tôi, mạ thì xin mỗi nhà một ít. Đến mùa, chúng tôi ra bản mượn liềm về gặt. Không cần biết năng suất thế nào nhưng nhìn bốn thùng phuy chứa đầy thóc là chúng tôi sung sướng lắm rồi. Gà thì nhiều không cần biết có bao nhiêu con. Chúng tôi nuôi đến ba con chó nên không sợ cáo đến rình mò bắt gà. Trong chuồng có hai con lợn béo núc na núc ních. Bắt chước người Lào, chúng tôi lấy một sợi dây đo vòng quanh ngực của con lợn, sau đó chập đôi lại và dùng nắm tay để đo đoạn dây đó. Mỗi nắm tay tương đương với mười cân. Một con được "năm nắm tay" và một con được "bốn nắm tay". Vườn rau của chúng tôi thôi thì đủ các loại: cải xanh, cải trắng, cải củ, su hào, cải bắp ăn không xuể. Ông Tam, trung đội trưởng, chỉ thị phải muối dưa để viện trợ cho ba tổ mới thành lập thuộc Trung đội 7 phía trong Cánh Đồng Chum, mỗi tổ hai thùng lương khô, vị chi là sáu thùng. Muốn để nhanh chua, chúng tôi lại học người Lào cho thêm ít cơm nguội vào (may mà không bị khú). Đầu năm 1973, ô tô của trung đoàn chở thêm cáp và lương thực, thực phẩm sang cho Đại đội 15 dự trữ trong mùa mưa. Xe đổ hàng cho tổ tôi ở một bãi trống cạnh đường 7 cách nhà đến năm cây số. Hàng nhiều đến nỗi đại đội phải điều một tổ xung kích đến giúp chúng tôi vận chuyển về tổ. Chúng tôi động viên nhau cố gắng mang hết hàng về thật nhanh, để còn chuẩn bị đón Tết.

Công việc chuyên môn của chúng tôi là phải thường xuyên nâng cao chất lượng thông tin bằng cách thay những cuộn dây cáp đã có từ hai mối nối trở lên, hàn lại những mối nối không đạt chất lượng, lau đầu cáp đã chỉn chu. Khi công việc đã xong, chúng tôi bắt tay vào lo cho cái Tết. Gọi là lo nhưng thực ra mọi cơ sở vật chất đã khá đầy đủ. Thóc nếp có, chỉ việc mang ra bản giã nhờ. Tôi và Trọng (quê Thái Bình) đổ đầy thóc vào hai cái ba lô gùi ra bản. Người Lào không có cối xay như ở ta, chỉ có hai cái cối dậm chân. Thóc cho vào cối, giã một lượt đầu cho bong vỏ trấu xong mang ra sảy, sau đó lại cho vào cối giã lần hai cho đến lúc nào trắng thì thôi. Đỗ xanh cũng có. Đỗ là của binh trạm cung cấp cho đơn vị ngâm lấy giá ăn hàng ngày. Lợn, gà đã sẵn trong chuồng. Lá dong mọc đầy khe suối, chỉ đi một lúc là cắt về được hàng ôm. Chỉ còn thiếu rượu. Ngày Tết mà không có tí rượu thì mất vui. Tôi ra bản xin men và hỏi cách làm cơm rượu. Gạo nếp đồ lên thành cơm, để nguội, bóp vụn men rắc vào, trộn đều rồi cho vào thùng lương khô, cuốn bao tải xung quanh ủ cho đến khi cơm rượu chảy nước, dậy mùi thơm là được.

Sáng hôm ấy, tôi gánh hai thùng lương khô đựng đầy cơm rượu và một xâu bị đông đến nhà ông tài sẻng mượn nồi niêu, đồ nghề nấu nhờ. Khi nồi rượu đã sôi, một dòng nước trong vắt theo đường ống chảy long tong vào chiếc bi đông mà tôi đã hứng sẵn ngay đầu ống. Một hương vị cay cay, tê tê, ngọt ngọt của rượu làm tôi sung sướng. Một lúc sau, nếm thử, tôi kêu lên: "Chứt leo! (nhạt rồi)" và dập lửa không lấy thêm nữa. Trước khi về, tôi không quên đi đến từng nhà dân bản để mời sáng mồng một Tết vào kin khẩu xa ma khi (ăn cơm đoàn kết) với bộ đội Việt Nam. Người Lào đón Tết năm mới không cùng với ta mà diễn ra vào khoảng trung tuần tháng Tư dương lịch tức là vào thời điểm bắt đầu mùa mưa. Bun pi may (Tết năm mới) còn gọi là Bun hốt nậm (Tết té nước). Ngày hôm đó,  người dân Lào mang những bình nước cúng tượng Phật, sau đó té, giội lên người nhau và cả khách qua đường. Họ cho rằng phải thật ướt mới gặp nhiều may mắn.

Còn một việc khá quan trọng là phải lo trang hoàng nhà cửa và làm báo tường. Việc trang trí nhà cửa cũng tằn tiện vì vẫn trong hoàn cảnh chiến trường. Chỉ cần ra bản xin một cành đào về cắm vào thùng lương khô, thế là đã ra không khí Tết lắm rồi. Tổ tôi có năm anh em, tôi khoán cho mỗi người phải viết hai bài báo tường. Còn nhớ ngày mùng 1 Tết năm ấy trùng với ngày kỷ niệm thành lập Đảng mùng 3 tháng 2, tôi viết một bài "xã luận" với nội dung là "Mừng Đảng, mừng Xuân" và một bài ca dao theo kiểu thơ Bút Tre:

Ai về mười tám tổ tôi

Có dòng suối chảy ven đồi thông xanh

Chim rừng ríu rít vây quanh

Ngàn hoa khoe sắc chào anh đây dường (đường dây).

Sáng 30 Tết, chúng tôi tập trung làm thịt một chú lợn và gói bánh chưng. Vì toàn con trai nên việc gói bánh đối với chúng tôi quả là điều vất vả. Cậu Minh (quê ở Phú Thọ) có sáng kiến đóng một cái khuôn bằng gỗ, sau đó xếp lá dong vào, tra gạo, đỗ vuông vắn, góc nào ra góc đấy.

Bóng chiều của dãy núi Phu He cao sừng sững ngay phía trước nhà đổ dài trên những tràn ruộng còn trơ gốc rạ của bản Nậm Cọ. Trời se lạnh. Gió xuân lùa vào cánh rừng sau nhà nghe xào xạc xen lẫn tiếng suối chảy róc rách, rì rào, chúng tôi tranh thủ bắc bếp luộc bánh chưng để khỏi phải thức đêm. Bữa cơm tất niên chiều hôm ấy có món đặc sản tiết canh lòng lợn và một bi đông rượu có mùi "thơm" đặc biệt vì tôi nấu quá lửa. Tôi nói vui chắc là năm nay có điềm may (quả nhiên thì sau đó không đầy một tháng, ngày 23 tháng 2, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hòa bình trên toàn lãnh thổ Lào được ký kết. Nhưng phải đến tháng 5 năm 1974, Đại đội 15 mới được lệnh rút về nước để nhận nhiệm vụ mới). Mọi người nhắc nhau không nên quá chén đề phòng đường dây thông tin bị mất liên lạc, phải lên đường khắc phục.

Tối hôm ấy, ngồi quanh nồi bánh chưng, chúng tôi nói chuyện vui vẻ để cố xua đi nỗi nhớ nhà. Tôi nhập ngũ từ năm 1968, ăn Tết xa nhà đã quen, nhưng có đồng chí mới đi đầu quân năm 1972. Loanh quanh thế nào lại chỉ có về chuyện gia đình, chuyện nhà, chuyện cửa. Tôi nói, nếu còn lành lặn trở về, thế nào cũng cố gắng đến thăm gia đình anh em trong tiểu đội dù chỉ lấy một lần. Thế mà phải đến tận hai mươi năm, sau khi Nhà nước xóa bỏ bao cấp, đời sống khấm khá, nhất là từ khi hội bạn chiến đấu Trung đoàn 134 được thành lập, chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau. Trọng (Thái Bình) nay là Chủ tịch Hội Nông dân xã, Minh (Phú Thọ) làm công việc hộ tịch ở địa phương, Lai (Hà Tây) làm việc tại Công ty xây dựng, có nhà ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Tòng (Nam Định), vốn đã có nghề loa đài từ trước khi vào bộ đội, mở một cửa hàng sửa chữa ti vi tại nhà. Riêng Tú, cậu em út của tiểu đội, quê ở Phủ Lý thì phải ba mươi năm tôi mới gặp lại, vì sau khi ra quân, Tú vào công tác tại đoàn thăm dò dầu khí đồng bằng sông Cửu Long rồi lập gia đình và định cư ở Vũng Tàu...

Sáng mùng 1 Tết năm ấy ở Lào, thủ trưởng đại đội gọi điện chúc Tết. Các tổ bảo vệ dây cũng gọi điện chúc Tết lẫn nhau. Chúng tôi làm thịt thêm hai con gà chuẩn bị đón khách.

Khoảng 10 giờ khách đến. Ông tài sẻng cùng đi với hai bà vợ, mia nhầy (vợ lớn) và bà mia nọi (vợ bé). Vì bà mia nhầy chỉ sinh được hai cô con gái nên ông tài sẻng lấy thêm bà mia nọi và đẻ được một cậu con trai. Kế tiếp là phò Thao La, người đã cày ruộng cho chúng tôi, với hai cậu con trai. Rồi đến Ái Vân Khăm, người đã rèn cho chúng tôi con dao quắm, đi cùng một cô gái tên là Đuông Xỉ. Tôi mời mọi người ngồi vào bàn và bắt đầu đọc bài diễn văn bằng tiếng Lào (vì sợ bạn đọc rối mắt nên tôi không chép ra đây) đại khái là cảm ơn sự giúp đỡ của dân bản, chúc mọi người du di mi heng (bình yên mạnh khỏe) và chúc cho tình hữu nghị Việt - Lào đời đời "như nước Hồng Hà - Cửu Long". Không có cốc chén, rượu được rót ra bát. Mọi người cười khen lẩu xẹp (rượu ngon). Nhìn hai bà vợ ông tài sẻng lóng ngóng cầm đũa ăn bánh chưng, chúng tôi bật cười. Người Lào xưa nay vẫn có thói quen ăn bốc. Họ cho rằng hạt lúa là hạt sữa do Mẹ Đất ban tặng nên phải quý trọng, nâng niu. Ông tài sẻng rất thích ăn món dồi lợn. Một lần nhà ông mổ lợn, ông nhờ chúng tôi ra làm hộ món dồi. Tôi bảo: "Anh cứ làm thịt con lợn xong, để riêng chậu tiết chúng em sẽ ra làm dồi". Hôm sau tôi và Minh ra bản thì đã thấy cô con gái ông tài sẻng cho một bát ớt bột vào chậu tiết rồi. Tôi bực mình bảo làm thế này thì không ngon nhưng vẫn phải làm cho xong món dồi. Bữa đó, tôi ăn có một miếng mà đã xuýt xoa chảy cả nước mắt.

Đến nay đã hơn ba mươi năm, chúng tôi vẫn ao ước có ngày được trở lại thăm chiến trường xưa trên đất bạn Lào, nơi "có những bản mường đẹp như hoa Chăm Pa", thăm lại các phò me, phì noọng và nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, những người đã góp phần không nhỏ giúp đỡ Đại đội 15 chúng tôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ có 5 năm từ khi thành lập đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”) 

0 comments:

Đăng nhận xét