17.1.25

Nhớ lại ngày đầu mắc dây trần ở Trường Sơn

Đại tá Trần Hữu Đạo - nguyên Trưởng ban Hữu tuyến điện, Phòng Thông tin Đoàn 559

Vào cuối năm 1966 đầu năm 1967, ở miền Nam, quân và dân ta liên tiếp mở các cuộc tiến công đánh bại "chiến tranh cục bộ" của Mỹ - ngụy. Yêu cầu chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường ngày càng lớn. Trong thời gian này, tuyến đường chi viện chiến lược Trường Sơn đã lật cánh hoàn toàn sang Tây Trường Sơn, trên đất bạn Lào. Để hoàn thành nhiệm vụ trước tình hình mới, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã xác định phương thức vận tải phải chuyển hẳn sang lấy vận tải cơ giới là chính, tư tưởng phòng tránh đơn thuần phải được đẩy lùi, chiến lược vận tải quân sự binh chủng hợp thành bắt đầu được xây dựng.

Nhưng trong tổ chức thực hiện toàn Đoàn gặp không ít khó khăn, hiệu quả vận tải thấp, ta phải chịu nhiều tổn thất do địch gây ra về xe, hàng và người. Một trong những nguyên nhân được Bộ Tư lệnh xác định là do trên tuyến chưa tổ chức được mạng thông tin liên lạc phục vụ đáp ứng yêu cầu chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp hàng ngày. Thời điểm này, phương tiện thông tin bảo đảm chỉ huy từ Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đến các đơn vị trực thuộc duy nhất là vô tuyến điện báo mã dịch1. Nắm tình hình và xử lý đều qua điện theo hẹn giờ, vừa chậm, vừa ít thông tin cần thiết.

Để sớm khắc phục tồn tại trên, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 giao nhiệm vụ cho thông tin Trường Sơn phải nhanh chóng tổ chức mắc đường dây trần tải ba trên tuyến để liên lạc trực tuyến hàng ngày với các đơn vị. Ngay trong mùa khô có đường dây liên lạc đến Binh trạm 1 và Binh trạm 2, hai đơn vị tiếp giáp nhận hàng của 2 cửa khẩu trọng yếu đường 12 và đường 20 và đảm nhiệm vùng kho chiến lược từ đường 9 trở ra.

Do sớm nắm bắt được quyết tâm của Bộ Tư lệnh Đoàn 559, từ cuối mùa khô năm trước - tháng 4 năm 1966 – Phòng Thông tin Bộ Tham mưu 559 đã tổ chức một tổ 5 người đi khảo sát thực địa, tìm hướng mắc dây đến 2 binh trạm. Tôi được giao làm tổ trưởng, liên tục trong 15 ngày anh em vai khoác ba lô, chân trần luồn rừng leo đèo, lội suối, bơi qua sông, vượt qua những dãy núi đá tai mèo sắc nhọn, qua những vùng trọng điểm máy bay địch đánh phá ác liệt, tới bản nào tối thì nghỉ lại, ngủ trong nhà dân. Đồng bào Lào thiếu ăn, thiếu mặc, sống sơ tán trong các nhà tạm bợ, nhưng ai cũng sẵn lòng giúp Bộ đội Việt Nam. Có nhiều đoạn địa hình phức tạp, chúng tôi được trưởng bản cử người dẫn đường giúp. Nhờ vậy tổ đã xác định được tuyến mắc dây và tham mưu tư vấn với trên về quyết tâm ở Trường Sơn có thể mắc đường dây trần tải ba được.

Cuối tháng 10 năm 1966, cán bộ, nhân viên khảo sát thiết kế và vật tư trang bị đồng bộ trên 30 tấn hàng được Cục Thông tin liên lạc Bộ Quốc phòng giải quyết đã tập kết đủ ở khu vực đầu đường 12 (Quảng Bình). Đường khó, vật tư theo xe nhập tuyến được chuyển tải đến các điểm trên đường trục 128 có người chờ tiếp nhận. Người hành quân bộ theo đường giao liên qua đèo Mụ Giạ vào Lùm Bùm gần Binh trạm 1.

Khi đến nơi, sau 1 ngày khảo sát, lực lượng ta triển khai thiết kế ngay. Ba ngày đầu suôn sẻ, đến giữa đêm thứ 4 một tốp máy bay địch đến thả bom tọa độ gần nơi anh em ngủ, đồng chí Nho đang ngủ trên võng bị một mảnh bom trúng bụng; máu chảy đầm đìa, ruột lòi ra đau đớn. Anh em đã kịp băng bó và thay nhau cáng đưa nhanh về bệnh xá Binh trạm để cứu chữa. Song vì đường rừng trong đêm tối khó đi, bệnh xá lại ở xa nên giữa đường, đồng chí Nho đã tắt thở. Một mất mát đau thương với đơn vị ngay trong những ngày đầu ra quân, nhưng không ai nhụt chí. Anh em động viên nhau phải làm việc tốt hơn để trả thù cho đồng chí mình.

Ngày 26 tháng 12 năm 1966, khi tiếng gà rừng gáy sớm, cả đại đội (đại đội dây trần đầu tiên của tuyến)2 đã dậy chuẩn bị cho ngày đầu mắc dây. Trời sáng rõ, dưới tán rừng của đại ngàn Trường Sơn, trước hàng ngũ chỉnh tề, đồng chí Nguyễn Văn Vy - chính trị viên nhắc nhở: "Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, hôm nay chúng ta được lệnh thi công, các đồng chí phải quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ!". Cả đại đội nhất loạt hô vang: "Quyết tâm! Quyết tâm! Quyết tâm!".

Mỗi người một việc, đồng loạt hành động, người phát tuyến chặt cây, khoan bắt sứ, người gùi vác rải dây, trên mũ tai bèo ai cũng có khẩu hiệu: "Vì miền Nam quyết tâm hoàn thành đường dây vượt kế hoạch!".

Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên rất quan tâm đến việc triển khai đường dây. Kết hợp chuyến đi kiểm tra Binh trạm 1, trưa ngày 25 tháng 1 năm 1967, đồng chí và cán bộ cùng đi đã đến ngay hiện trường thông tin đang thi công thăm hỏi và động viên bộ đội. Đồng chí nói, đại ý: Việc mắc đường dây trần tải ba của các đồng chí rất cần cho chỉ đạo và chỉ huy của Đoàn. Thông dây sớm sẽ góp phần đưa được nhiều hàng, nhiều quân vào các chiến trường trong mùa khô này. Tôi tin tưởng và chờ đợi chiến công đầu của các đồng chí.

Như được tiếp thêm nguồn lực mới, cả đại đội ai nấy đều lao động hết mình để sớm thông dây. Sau hơn một tháng thi công, 10 giờ ngày 22 tháng 2 năm 1967, đoạn dây trần đầu tiên trên tuyến đường Trường Sơn từ Sở chỉ huy Đoàn đến Binh trạm 1 dài 40km với 2 sợi dây đồng, một sợi dây sắt đã hoàn thành. Tôi ở giữa đường dây, qua điện thoại báo cáo về Phòng Thông tin. Sau đó tổng đài liên tục tiếp chuyển các cuộc đàm thoại giữa thủ trưởng Bộ Tư lệnh Đoàn với Binh trạm và giữa trực ban Đoàn với trực ban Binh trạm kéo dài cho đến chiều tối.

Do có đường dây liên lạc trực tiếp nên trong buổi giao ban sáng ngày 23 tháng 2 năm 1967 ở Sở chỉ huy Đoàn 559 do Tư lệnh chủ trì, tình hình hoạt động mọi mặt của Binh trạm 1 trong ngày và đêm hôm trước về tác chiến Phòng không, bảo đảm cầu đường, các đoàn xe vận chuyển, quân ra, quân vào các trạm giao liên Bộ và các nhiệm vụ quan khác đều được trực ban báo cáo đầy đủ. Điều trọng nhất là số lượng xe chở hàng vượt trọng điểm Cốc Mạc - Văng Mu vào kho đường 9 trong đêm được trực ban vận chuyển báo cáo cụ thể đến từng đầu xe. Việc gay cấn từ lâu, nay bước đầu đã được tháo gỡ làm cho cuộc giao ban của Bộ Tư lệnh Đoàn 559 trở nên sôi nổi khác hẳn mọi lần trước đó.

Từ thành công ở hướng Binh trạm 1, ngày 25 tháng 2 năm 1967, Bộ Tham mưu Đoàn giao nhiệm vụ cho Đại đội 2 (đại đội dây trần thứ 2) và 1 trung đội của Đại đội 1 khẩn trương thi công tiếp đường dây đến Binh trạm 2 để kịp thời phục vụ 2 tháng mùa khô còn lại.

Thời điểm này đang là giữa mùa khô ở Lào, tuyến mắc dây qua những địa hình là những quả đồi bát úp rậm rạp tre, vầu, le, nứa. Cột mắc dây phải đi chặt xa hàng cây số vác về. Thi công cuốn chiếu nên cứ khoảng ba, bốn ngày lại phải di chuyển chỗ ở. Anh em phải thường xuyên đề phòng với loại máy bay trinh sát L19, OV10 phát hiện, chỉ điểm cho máy bay cường kích đánh phá. Hàng ngày, bộ đội dậy sớm, lót dạ bằng lương khô, ăn trưa tại hiện trường tối về ăn xong thu lá cây khô làm đệm, rải tăng võng lên nằm. Mùa khô ở Tây Trường Sơn, cơ cực nhất là thiếu nước sinh hoạt. Có khi cả tuần mới được tắm rửa một lần. Có lúc phải chia nhau từng ngụm nước uống. Bù lại là cơ động, ngủ về đêm dễ dàng. Gian khó là vậy nhưng không ai kêu ca, nản chí. Khi căng, kéo, hãm dây hò nhau vang dậy cả núi rừng. Trong thời gian mắc dây, 4 đầu máy tải ba loại 1 đường TCT (2 máy TCT1 và 2 máy TCT2) của Hung-ga-ri viện trợ do Cục Thông tin liên lạc cấp đã chuyển đến Đoàn bộ và 2 binh trạm. Đây là loại máy tải ba dã chiến công suất nhỏ. Ở thời điểm đó, đây là loại trang bị hiếm. Cứ xây dựng xong đường dây, lắp máy vào là các binh trạm và Đoàn đã có 2 kênh đàm thoại trực tiếp to, rõ, không bị xuyên nhiễu và giữ được bí mật.

Sau 8 năm, tuyến chi viện chiến lược hoạt động (1959-1967), ngoài đường ô tô, đường giao liên, nay đã xuất hiện một loại đường mới: Đường dây trần tải ba dùng để đảm bảo thông tin liên lạc chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Đoàn với các đơn vị trực thuộc, trước mắt là các binh trạm 1 và 2.

Tại Sở chỉ huy Đoàn, khi chưa có đường dây trần tải ba, người trực rất ít. Nay, Tư lệnh yêu cầu 8 đầu mối3 cơ quan binh chủng đều có trực ban. Bộ Tư lệnh và cơ quan tham mưu các cấp cùng tham gia nắm tình hình, xử lý công việc kịp thời mọi nơi, mọi lúc liên tục 24/24 giờ trong ngày.

Các binh trạm 1 và 2 được đảm nhiệm các vị trí được coi như yết hầu và then chốt của toàn tuyến. Ở đây vận hành tốt có tác dụng quyết định đến hoàn thành nhiệm vụ của cả tuyến. Thông tin đã lấy đường dây tải ba làm chủ yếu, kết hợp với các loại phương tiện thông tin khác như vô tuyến điện sóng ngắn, sóng cực ngắn và đường dây bọc của binh trạm để phục vụ cho liên lạc chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Đoàn; đồng thời, bảo đảm chỉ huy chiến đấu binh chủng hợp thành của pháo cao xạ, công binh và xe vận tải trên các cung vận chuyển và trọng điểm, chống lại sự đánh phá ngăn chặn bằng máy bay của địch. Thông tin đã thực sự góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch vận chuyển các tháng đầu năm và phục vụ thực hiện đợt "tổng công kích, tăng đầu xe, chạy vượt cung tăng chuyến, hoàn thành dứt điểm kế hoạch chi viện tháng 4 và kết thúc thắng lợi kế hoạch chi viện cho các chiến trường của toàn tuyến 559 trong mùa khô năm 1966-1967"4.

Trang thiết bị thông tin liên lạc của Quân đội ta ở thập kỷ 60 của thế kỷ XX còn rất lạc hậu. Muốn liên lạc thoại trực tiếp ở cự ly từ 30km trở lên phải dùng đường dây trần. Khi bàn mắc dây trần ở Trường Sơn phục vụ nhiệm vụ chi viện, đã có những ý kiến cho rằng ta không đủ sức mắc và cũng không đủ sức giữ. Nhưng với quyết tâm của Bộ Tư lệnh, được sự giúp đỡ tận tình của Cục Thông tin liên lạc, Thông tin Trường Sơn đã dũng cảm, lao động sáng tạo, hết lòng vì miền Nam ruột thịt, đã xây dựng thành công đường dây trần và phục vụ có hiệu quả cho chi viện chiến trường và chiến đấu thắng lợi mà bắt đầu là từ mùa khô 1966-1967.

Từ kết quả thành công trên, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã xây dựng quyết tâm và đề nghị với Bộ giao cho Thông tin Trường Sơn nhanh chóng tổ chức triển khai mạng đường dây trần tải ba có quy mô rộng khắp trên toàn tuyến, cả ở Tây và Đông Trường Sơn vào các năm sau đó.

Thông tin Trường Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, từng bước trưởng thành, góp phần xứng đáng vào chiến công chung thực hiện chủ trương chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.

Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông tin liên lạc - Tập 2”)

--------------------------------------------

1 Vô tuyến điện báo mã dịch là loại vô tuyến điện báo moóc, cơ yếu mã dịch. Phương tiện dùng chủ yếu là máy 15W-102E do Trung Quốc sản xuất.

2 Đại đội được tuyên dương Đơn vị Anh hùng LLVTND ngày 25-8-1970.

3 Các trực ban tại Sở chỉ huy Đoàn năm 1967: Tổng trực ban Tác chiến, Cầu đường, Vận chuyển, Hành quân, Xăng dầu, Quân y, Chính trị và Thông tin.

4 Dẫn theo: Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn (Hồi ký), Duy Tường và Kỳ Vân thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1999, tr. 101-102. 

0 comments:

Đăng nhận xét