Đại tá Trần Hữu Đạo - nguyên Trưởng ban Hữu tuyến điện,
Phòng Thông tin Đoàn 559
Vào cuối năm 1966 đầu năm 1967, ở miền Nam, quân và
dân ta liên tiếp mở các cuộc tiến công đánh bại "chiến tranh cục bộ"
của Mỹ - ngụy. Yêu cầu chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc với
chiến trường ngày càng lớn. Trong thời gian này, tuyến đường chi viện chiến lược
Trường Sơn đã lật cánh hoàn toàn sang Tây Trường Sơn, trên đất bạn Lào. Để hoàn
thành nhiệm vụ trước tình hình mới, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã xác định phương thức
vận tải phải chuyển hẳn sang lấy vận tải cơ giới là chính, tư tưởng phòng tránh
đơn thuần phải được đẩy lùi, chiến lược vận tải quân sự binh chủng hợp thành bắt
đầu được xây dựng.
Nhưng trong tổ chức thực hiện toàn Đoàn gặp không ít khó
khăn, hiệu quả vận tải thấp, ta phải chịu nhiều tổn thất do địch gây ra về xe,
hàng và người. Một trong những nguyên nhân được Bộ Tư lệnh xác định là do trên
tuyến chưa tổ chức được mạng thông tin liên lạc phục vụ đáp ứng yêu cầu chỉ đạo
và chỉ huy trực tiếp hàng ngày. Thời điểm này, phương tiện thông tin bảo đảm chỉ
huy từ Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đến các đơn vị trực thuộc duy nhất là vô tuyến điện
báo mã dịch1. Nắm tình hình và xử lý đều qua điện theo hẹn giờ, vừa
chậm, vừa ít thông tin cần thiết.
Để sớm khắc phục tồn tại trên, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 giao
nhiệm vụ cho thông tin Trường Sơn phải nhanh chóng tổ chức mắc đường dây trần tải
ba trên tuyến để liên lạc trực tuyến hàng ngày với các đơn vị. Ngay trong mùa
khô có đường dây liên lạc đến Binh trạm 1 và Binh trạm 2, hai đơn vị tiếp giáp
nhận hàng của 2 cửa khẩu trọng yếu đường 12 và đường 20 và đảm nhiệm vùng kho
chiến lược từ đường 9 trở ra.
Do sớm nắm bắt được quyết tâm của Bộ Tư lệnh Đoàn 559,
từ cuối mùa khô năm trước - tháng 4 năm 1966 – Phòng Thông tin Bộ Tham mưu 559
đã tổ chức một tổ 5 người đi khảo sát thực địa, tìm hướng mắc dây đến 2 binh trạm.
Tôi được giao làm tổ trưởng, liên tục trong 15 ngày anh em vai khoác ba lô,
chân trần luồn rừng leo đèo, lội suối, bơi qua sông, vượt qua những dãy núi đá
tai mèo sắc nhọn, qua những vùng trọng điểm máy bay địch đánh phá ác liệt, tới
bản nào tối thì nghỉ lại, ngủ trong nhà dân. Đồng bào Lào thiếu ăn, thiếu mặc,
sống sơ tán trong các nhà tạm bợ, nhưng ai cũng sẵn lòng giúp Bộ đội Việt Nam.
Có nhiều đoạn địa hình phức tạp, chúng tôi được trưởng bản cử người dẫn đường
giúp. Nhờ vậy tổ đã xác định được tuyến mắc dây và tham mưu tư vấn với trên về
quyết tâm ở Trường Sơn có thể mắc đường dây trần tải ba được.
Cuối tháng 10 năm 1966, cán bộ, nhân viên khảo sát thiết
kế và vật tư trang bị đồng bộ trên 30 tấn hàng được Cục Thông tin liên lạc Bộ
Quốc phòng giải quyết đã tập kết đủ ở khu vực đầu đường 12 (Quảng Bình). Đường
khó, vật tư theo xe nhập tuyến được chuyển tải đến các điểm trên đường trục 128
có người chờ tiếp nhận. Người hành quân bộ theo đường giao liên qua đèo Mụ Giạ
vào Lùm Bùm gần Binh trạm 1.
Khi đến nơi, sau 1 ngày khảo sát, lực lượng ta triển khai
thiết kế ngay. Ba ngày đầu suôn sẻ, đến giữa đêm thứ 4 một tốp máy bay địch đến
thả bom tọa độ gần nơi anh em ngủ, đồng chí Nho đang ngủ trên võng bị một mảnh
bom trúng bụng; máu chảy đầm đìa, ruột lòi ra đau đớn. Anh em đã kịp băng bó và
thay nhau cáng đưa nhanh về bệnh xá Binh trạm để cứu chữa. Song vì đường rừng trong
đêm tối khó đi, bệnh xá lại ở xa nên giữa đường, đồng chí Nho đã tắt thở. Một mất
mát đau thương với đơn vị ngay trong những ngày đầu ra quân, nhưng không ai nhụt
chí. Anh em động viên nhau phải làm việc tốt hơn để trả thù cho đồng chí mình.
Ngày 26 tháng 12 năm 1966, khi tiếng gà rừng gáy sớm,
cả đại đội (đại đội dây trần đầu tiên của tuyến)2 đã dậy chuẩn bị
cho ngày đầu mắc dây. Trời sáng rõ, dưới tán rừng của đại ngàn Trường Sơn, trước
hàng ngũ chỉnh tề, đồng chí Nguyễn Văn Vy - chính trị viên nhắc nhở: "Sau một
thời gian chuẩn bị tích cực, hôm nay chúng ta được lệnh thi công, các đồng chí
phải quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ!". Cả đại đội nhất loạt hô
vang: "Quyết tâm! Quyết tâm! Quyết tâm!".
Mỗi người một việc, đồng loạt hành động, người phát tuyến
chặt cây, khoan bắt sứ, người gùi vác rải dây, trên mũ tai bèo ai cũng có khẩu
hiệu: "Vì miền Nam quyết tâm hoàn thành đường dây vượt kế hoạch!".
Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên rất quan tâm đến việc triển khai
đường dây. Kết hợp chuyến đi kiểm tra Binh trạm 1, trưa ngày 25 tháng 1 năm
1967, đồng chí và cán bộ cùng đi đã đến ngay hiện trường thông tin đang thi
công thăm hỏi và động viên bộ đội. Đồng chí nói, đại ý: Việc mắc đường dây trần
tải ba của các đồng chí rất cần cho chỉ đạo và chỉ huy của Đoàn. Thông dây sớm
sẽ góp phần đưa được nhiều hàng, nhiều quân vào các chiến trường trong mùa khô
này. Tôi tin tưởng và chờ đợi chiến công đầu của các đồng chí.
Như được tiếp thêm nguồn lực mới, cả đại đội ai nấy đều
lao động hết mình để sớm thông dây. Sau hơn một tháng thi công, 10 giờ ngày 22
tháng 2 năm 1967, đoạn dây trần đầu tiên trên tuyến đường Trường Sơn từ Sở chỉ huy
Đoàn đến Binh trạm 1 dài 40km với 2 sợi dây đồng, một sợi dây sắt đã hoàn
thành. Tôi ở giữa đường dây, qua điện thoại báo cáo về Phòng Thông tin. Sau đó
tổng đài liên tục tiếp chuyển các cuộc đàm thoại giữa thủ trưởng Bộ Tư lệnh
Đoàn với Binh trạm và giữa trực ban Đoàn với trực ban Binh trạm kéo dài cho đến
chiều tối.
Do có đường dây liên lạc trực tiếp nên trong buổi giao
ban sáng ngày 23 tháng 2 năm 1967 ở Sở chỉ huy Đoàn 559 do Tư lệnh chủ trì,
tình hình hoạt động mọi mặt của Binh trạm 1 trong ngày và đêm hôm trước về tác
chiến Phòng không, bảo đảm cầu đường, các đoàn xe vận chuyển, quân ra, quân vào
các trạm giao liên Bộ và các nhiệm vụ quan khác đều được trực ban báo cáo đầy đủ.
Điều trọng nhất là số lượng xe chở hàng vượt trọng điểm Cốc Mạc - Văng Mu vào
kho đường 9 trong đêm được trực ban vận chuyển báo cáo cụ thể đến từng đầu xe.
Việc gay cấn từ lâu, nay bước đầu đã được tháo gỡ làm cho cuộc giao ban của Bộ
Tư lệnh Đoàn 559 trở nên sôi nổi khác hẳn mọi lần trước đó.
Từ thành công ở hướng Binh trạm 1, ngày 25 tháng 2 năm
1967, Bộ Tham mưu Đoàn giao nhiệm vụ cho Đại đội 2 (đại đội dây trần thứ 2) và
1 trung đội của Đại đội 1 khẩn trương thi công tiếp đường dây đến Binh trạm 2 để
kịp thời phục vụ 2 tháng mùa khô còn lại.
Thời điểm này đang là giữa mùa khô ở Lào, tuyến mắc dây
qua những địa hình là những quả đồi bát úp rậm rạp tre, vầu, le, nứa. Cột mắc
dây phải đi chặt xa hàng cây số vác về. Thi công cuốn chiếu nên cứ khoảng ba, bốn
ngày lại phải di chuyển chỗ ở. Anh em phải thường xuyên đề phòng với loại máy
bay trinh sát L19, OV10 phát hiện, chỉ điểm cho máy bay cường kích đánh phá.
Hàng ngày, bộ đội dậy sớm, lót dạ bằng lương khô, ăn trưa tại hiện trường tối về
ăn xong thu lá cây khô làm đệm, rải tăng võng lên nằm. Mùa khô ở Tây Trường
Sơn, cơ cực nhất là thiếu nước sinh hoạt. Có khi cả tuần mới được tắm rửa một lần.
Có lúc phải chia nhau từng ngụm nước uống. Bù lại là cơ động, ngủ về đêm dễ
dàng. Gian khó là vậy nhưng không ai kêu ca, nản chí. Khi căng, kéo, hãm dây hò
nhau vang dậy cả núi rừng. Trong thời gian mắc dây, 4 đầu máy tải ba loại 1 đường
TCT (2 máy TCT1 và 2 máy TCT2) của Hung-ga-ri viện trợ do Cục Thông tin liên lạc
cấp đã chuyển đến Đoàn bộ và 2 binh trạm. Đây là loại máy tải ba dã chiến công
suất nhỏ. Ở thời điểm đó, đây là loại trang bị hiếm. Cứ xây dựng xong đường
dây, lắp máy vào là các binh trạm và Đoàn đã có 2 kênh đàm thoại trực tiếp to,
rõ, không bị xuyên nhiễu và giữ được bí mật.
Sau 8 năm, tuyến chi viện chiến lược hoạt động (1959-1967),
ngoài đường ô tô, đường giao liên, nay đã xuất hiện một loại đường mới: Đường
dây trần tải ba dùng để đảm bảo thông tin liên lạc chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp
của Bộ Tư lệnh Đoàn với các đơn vị trực thuộc, trước mắt là các binh trạm 1 và
2.
Tại Sở chỉ huy Đoàn, khi chưa có đường dây trần tải
ba, người trực rất ít. Nay, Tư lệnh yêu cầu 8 đầu mối3 cơ quan binh
chủng đều có trực ban. Bộ Tư lệnh và cơ quan tham mưu các cấp cùng tham gia nắm
tình hình, xử lý công việc kịp thời mọi nơi, mọi lúc liên tục 24/24 giờ trong
ngày.
Các binh trạm 1 và 2 được đảm nhiệm các vị trí được coi
như yết hầu và then chốt của toàn tuyến. Ở đây vận hành tốt có tác dụng quyết định
đến hoàn thành nhiệm vụ của cả tuyến. Thông tin đã lấy đường dây tải ba làm chủ
yếu, kết hợp với các loại phương tiện thông tin khác như vô tuyến điện sóng ngắn,
sóng cực ngắn và đường dây bọc của binh trạm để phục vụ cho liên lạc chỉ đạo và
chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Đoàn; đồng thời, bảo đảm chỉ huy chiến đấu
binh chủng hợp thành của pháo cao xạ, công binh và xe vận tải trên các cung vận
chuyển và trọng điểm, chống lại sự đánh phá ngăn chặn bằng máy bay của địch.
Thông tin đã thực sự góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch vận chuyển các tháng
đầu năm và phục vụ thực hiện đợt "tổng công kích, tăng đầu xe, chạy vượt
cung tăng chuyến, hoàn thành dứt điểm kế hoạch chi viện tháng 4 và kết thúc thắng
lợi kế hoạch chi viện cho các chiến trường của toàn tuyến 559 trong mùa khô năm
1966-1967"4.
Trang thiết bị thông tin liên lạc của Quân đội ta ở thập
kỷ 60 của thế kỷ XX còn rất lạc hậu. Muốn liên lạc thoại trực tiếp ở cự ly từ
30km trở lên phải dùng đường dây trần. Khi bàn mắc dây trần ở Trường Sơn phục vụ
nhiệm vụ chi viện, đã có những ý kiến cho rằng ta không đủ sức mắc và cũng
không đủ sức giữ. Nhưng với quyết tâm của Bộ Tư lệnh, được sự giúp đỡ tận tình
của Cục Thông tin liên lạc, Thông tin Trường Sơn đã dũng cảm, lao động sáng tạo,
hết lòng vì miền Nam ruột thịt, đã xây dựng thành công đường dây trần và phục vụ
có hiệu quả cho chi viện chiến trường và chiến đấu thắng lợi mà bắt đầu là từ
mùa khô 1966-1967.
Từ kết quả thành công trên, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã xây
dựng quyết tâm và đề nghị với Bộ giao cho Thông tin Trường Sơn nhanh chóng tổ
chức triển khai mạng đường dây trần tải ba có quy mô rộng khắp trên toàn tuyến,
cả ở Tây và Đông Trường Sơn vào các năm sau đó.
Thông tin Trường Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao,
từng bước trưởng thành, góp phần xứng đáng vào chiến công chung thực hiện chủ
trương chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Đăng bởi Quang Hưng (nguồn “Ký ức Cựu chiến binh Thông
tin liên lạc - Tập 2”)
--------------------------------------------
1 Vô tuyến điện báo mã
dịch là loại vô tuyến điện báo moóc, cơ yếu mã dịch. Phương tiện dùng chủ yếu
là máy 15W-102E do Trung Quốc sản xuất.
2 Đại đội được tuyên
dương Đơn vị Anh hùng LLVTND ngày 25-8-1970.
3 Các trực ban tại Sở
chỉ huy Đoàn năm 1967: Tổng trực ban Tác chiến, Cầu đường, Vận chuyển, Hành
quân, Xăng dầu, Quân y, Chính trị và Thông tin.
4 Dẫn theo: Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn (Hồi ký), Duy Tường và Kỳ Vân thể hiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1999, tr. 101-102.
0 comments:
Đăng nhận xét